SKKN Sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu trong dạy học Ngữ Văn 7
Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học đó trở thành yêu cầu thiết yếu của mọi hoạt động giáo dục. Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu mới của lí luận dạy học hiện đại của thế giới, các nhà nghiên cứu lí luận dạy học Việt Nam đó nghiên cứu và đưa ra các định hướng đổi mới về phương pháp dạy học “thống nhất theo tư tưởng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.
Học sinh tự giác, chủ động tìm tòi, phát hiện kiến thức, tìm hiểu vấn đề và có ý thức vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kiến thức, kĩ năng đó thu nhận được. Xuất phát từ nhận thức cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học ấy, là giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy, tôi luôn có những băn khoăn, trăn trở nên sử dụng các hình thức dạy học như thế nào đặc biệt là những hình thức dạy học mới cho phù hợp với phương pháp dạy học hiện đại và để có được những giờ dạy đạt hiệu quả cao nhất.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu trong dạy học Ngữ Văn 7

PHÒNG GIÁO DỤC HUYỆN HỒI ĐỨC TRƯỜNG THCS AN THƯỢNG CỘNG HỒ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP SO SÁNH ĐỐI CHIẾU TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN 7 Năm học: 2007 – 2008 A - NỘI DUNG ĐỀ TÀI. Tên đề tài: “Sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu trong dạy - học Ngữ văn 7” A.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.CƠ SỞ THỰC TIỄN Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học đó trở thành yêu cầu thiết yếu của mọi hoạt động giáo dục. Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu mới của lí luận dạy học hiện đại của thế giới, các nhà nghiên cứu lí luận dạy học Việt Nam đó nghiên cứu và đưa ra các định hướng đổi mới về phương pháp dạy học “thống nhất theo tư tưởng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”. Học sinh tự giác, chủ động tìm tòi, phát hiện kiến thức, tìm hiểu vấn đề và có ý thức vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kiến thức, kĩ năng đó thu nhận được. Xuất phát từ nhận thức cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học ấy, là giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy, tôi luôn có những băn khoăn, trăn trở nên sử dụng các hình thức dạy học như thế nào đặc biệt là những hình thức dạy học mới cho phù hợp với phương pháp dạy học hiện đại và để có được những giờ dạy đạt hiệu quả cao nhất. 2.CƠ SỞ KHOA HỌC Thấy được những nhược điểm của phương pháp dạy học Ngữ văn theo cách truyền thống, tôi nhận thấy phải nhanh chóng đổi mới phương pháp dạy học theo xu thế chung và việc đổi mới đú đó được thực hiện tích cực trong những năm gần đây. Với đặc trưng của môn Ngữ văn việc áp dụng phương pháp dạy học mới với các hình thức dạy học sáng tạo đòi hỏi người giáo viên phải tâm huyết để có được những tìm tòi, sáng tạo phù hợp với đặc trưng bộ môn và với từng phân môn. Dạy - học Ngữ văn được coi là môn học khó trong xã hội hiện đại. Trong thực tế tâm lí học sinh rất ngại học Ngữ văn do các em có điều kiện tiếp xúc với các phương tiện thông tin hiện đại đem lại nguồn thông tin nhanh chóng. Từ đú các em nảy sinh tâm lí ngại đọc văn và học Ngữ văn. Tuy nhiên, các phương tiện thông tin nhanh thường mang lại cho các em những kiến thức rất hời hợt và không mang lại hiệu quả giáo dục cao. Vì thế việc dạy học Ngữ văn trong nhà trường vẫn giữ một vai trò rất quan trọng trong quá trình giáo dục và hình thành nhân cách cho các em. Từ thực tế đú tôi càng nhận thức được rõ hơn tầm quan trọng của yêu cầu đổi mới phương pháp và hình thức dạy học Ngữ văn nhằm khắc phục những nhược điểm của bộ môn và khơi dậy ở các em lòng yêu thích bộ môn giàu tính nhân văn này. Trong quá trình dạy học ngữ văn tôi nhận thấy việc áp dụng phương pháp dạy học mới với các hình thức dạy học của nó đó đem lại những hiệu quả rõ rệt khiến các em tránh được tâm lí ngại học và yêu thích bộ môn này hơn. Tuy nhiên việc áp dụng các hình thức dạy học mới vào quá trình giảng dạy vẫn còn nhiều khó khăn đòi hỏi tôi phải tiếp tục tìm tòi vận dụng các phương pháp và hình thức mới để việc dạy học có được những kết quả khả quan hơn. B.QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI I.KHẢO SÁT THỰC TẾ Từ đầu năm học 2008 – 2009, trong các buổi họp bộ môn Ngữ văn chúng tôi đó họp và bàn luận về việc tiếp tục áp dụng các hình thức dạy học mới đối với bộ môn Ngữ văn. Riêng tôi nhận thấy để áp dụng được các hình thức dạy - học mới đối với môn Ngữ văn đòi hỏi người giáo viên phải tích cực đầu tư thời gian nghiên cứu, tìm hiểu bài dạy để vận dụng các hình thức dạy - học mới một cách thích hợp. Như vậy thì mới có thể giúp học sinh có hứng thú với bộ môn đồng thời giúp học sinh khắc sâu, nhớ lâu kiến thức và tránh được tâm lí ngại học Ngữ văn. Từ thực tế đú, trong năm học này tôi đó tích cực hơn trong việc sử dụng các hình thức dạy - học mới đối với bộ môn của mình, đặc biệt chú ý đến việc “Sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu trong dạy học Ngữ văn 7”. Tình hình thực tế khi thực hiện Năm học 2008 – 2009 tôi được phân công đảm nhiệm giảng dạy môn Ngữ văn ở hai lớp 7A và 7C * Qua bài khảo sát đầu năm, tỉ lệ học sinh đạt kết quả nh− sau: Loại Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém Số % Số % Số % Số % Số % Tổng số lượng lượng lượng lượng lượng 7A 41 2 5 20 49 17 34 2 5 0 0 7C 34 0 0 5 15 18 59 9 26 2 6 II.NỘI DUNG ĐỀ TÀI 1.Phạm vi áp dụng. Phương pháp so sánh đối chiếu có thể được sử dụng rộng rãi ở nhiều môn học. Đối với riêng bộ môn Ngữ văn nó cũng có thể được áp dụng ở cả ba phân môn Văn, Tiếng Việt và Tập làm văn nhưng việc áp dụng phải được nghiên cứu để vận dụng vào những bài học thích hợp. Vậy loại bài học nào là phù hợp để áp dụng phương pháp này? Qua kinh nghiệm giảng dạy chúng tôi nhận thấy phương pháp này có thể áp dụng với những loại bài học sau: - Phương pháp so sánh đối chiếu rất phù hợp áp dụng với những bài học có các đơn vị kiến thức có nét tương đồng mà học sinh dễ nhầm lẫn. Hiện tượng thường gặp ở những bài này khi giáo viên chưa giúp học sinh phân biệt rạch ròi được các đơn vị kiến thức là học sinh không biết đâu là đúng, đâu là sai, không biết đặc điểm nào thuộc nội dung nào. Vì thế dẫn đến sự lúng túng trong việc vận dụng vào thực tế hoặc vận dụng sai. - Tương tự như vậy, ta cũng có thể áp dụng phương pháp này trong các bài học có những đơn vị kiến thức hoàn toàn đối lập. Ở những bài học này nếu không áp dụng cũng không đến nỗi đem lại hiệu quả không tích cực như ở trên nhưng có thể thấy rõ là hiệu quả bài dạy không được cao. 2.Yêu cầu. - Giáo viên phải nghiên cứu bài dạy kĩ càng trước khi áp dụng để việc thực hiện đạt hiệu quả cao. Nếu giáo viên cứ chạy theo hình thức của việc áp dụng các hình thức dạy học mới mà không quan tâm đến hiệu quả đích thực thì việc vận dụng sẽ không đem lại hiệu quả như mong muốn, thậm chí còn gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả giờ học. - Giáo viên phải nghiên cứu để tìm ra hệ thống câu hỏi phù hợp nhằm dẫn dắt học sinh phát hiện kiến thức và đi đến kiến thức cần rút ra sau khi so sánh đối chiếu. - Đối với những tiết học mà phạm vi so sánh không ở cùng phạm vi bài học, giáo viên cần yêu cầu các em xem lại hoặc chuẩn bị (những kiến thức mà mình định sử dụng để so sánh) trước ở nhà thì việc vận dụng mới đạt hiệu quả cao. Tránh tình trạng mất thời gian nhớ lại kiến thức cũ làm ảnh hưởng đến tiến trình giờ dạy. 3.Ưu - nhược điểm a.Ưu điểm: - Qua kinh nghiệm thực tế chúng tôi nhận thấy rằng những bài học được áp dụng phương pháp này một cách phù hợp đó đem lại những hiệu quả hết sức rõ rệt. Với hệ thống câu hỏi phù hợp chúng tôi giúp học sinh nhận ra những đặc điểm của từng đơn vị kiến thức khác nhau từ dễ đến khó. Từ đú phát huy được tính tích cực của học sinh. Các em chủ động tìm tòi các đặc điểm của từng đơn vị kiến thức sau đú rút ra kết luận nhờ sự gợi ý của giáo viên. Và nhờ đú mà học sinh nắm bắt kiến thức nhanh và nhớ được lâu hơn, kiến thức được đào sâu hơn. - Sau khi áp dụng kiến thức này vào một số bài học và kiểm tra lại, kết quả cho thấy kiến thức hình thành từ phương pháp này được học sinh ghi nhớ là rõ ràng, tránh được những nhầm lẫn giữa đơn vị kiến thức này với đơn vị kiến thức khác tương tự và tránh được nhầm lẫn khi vận dụng vào thực tế. b.Nhược điểm: - Do đặc điểm của từng bài dạy, hình thức này không được áp dụng thường xuyên dẫn đến kĩ năng thực hành của học sinh đôi khi còn lúng túng. - Học sinh yếu thấy khó hay nản dẫn đến không hiểu bài 4.Vận dụng vào thực tế dạy học a. Đối với phần văn bản Văn học. Ví dụ 1: Trong văn bản “Cổng trường mở ra” để làm nổi bật tâm trạng của người mẹ vào đêm trước ngày khai trường của con tôi đã cho học sinh tìm trong văn bản những chi tiết cho thấy tâm trạng của mẹ và con vào đêm trước ngày khai trường.Từ đó, giúp học sinh cảm nhận ®ù¬c tình cảm sâu sắc của người mẹ. Đứa con Người mẹ - Giấc ngủ đến dễ dàng - Có niềm háo hức - Trong lòng không có bận tâm gì => Là một em bé ngây thơ, trong sáng. - Mẹ không ngủ được - Mẹ không tập trung được vào việc gì cả. - Trằn trọc, băn khoăn - Thao thức, lo lắng => Là một người mẹ sâu sắc, yêu thương con hết mực. Ví dụ 2: Khi dạy chêm bài thơ Trung đại học sinh được làm quen với khá nhiều thể loại thơ (thất ngôn, ngũ ngôn, song thất lục bát, ... đặc biệt là các thể thơ Đường). Các thể thơ này đều có những qui định nghiêm ngặt về vần, luật. Để học sinh nắm chắc được đặc điểm các thể loại đó thì trước hết giáo viên phải cho học sinh đối chiếu yêu cầu của mỗi thể loại với các bài thơ cụ thể, từ đó giúp học sinh nhận ra được mỗi bài thơ đó có đáp ứng được yêu cầu thể loại hay không. Tương tự nh− vậy, giáo viên cho học sinh đối chiếu giữa bản phiên âm với bản dịch thơ để học sinh thấy được tài năng của người dịch, đồng thời nhận ra những điểm chưa đúng với bản phiên âm. Ví dụ: ở bài “Sông núi nước Nam” đối chiếu giữa bản phiên âm với bản dịch học sinh sẽ nhận ra ở bản dịch phần vần gồm các từ “ở, sở, vì” là thanh trắc chưa đáp ứng được với ba vần bằng ở bản phiên âm “cư, thư, hư” Hay ở hai bài thơ của Bác “Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng” cũng được làm theo những thể loại trên. Giáo viên cũng cần cho học sinh đối chiếu để xác định thể thơ, từ đó nhận ra rằng đó là hai bài thơ hiện đại được làm theo thể thơ Đường. Đặc biệt ở bài “Rằm tháng giêng” giáo viên cần cho học sinh đối chiếu giữa bản dịch thơ và bản phiên âm để học sinh nhận ra cái hay, cái đẹp của từ ngữ trong bản phiên âm mà bản dịch thơ không chuyển tải hết được như các từ : kim dạ, chính viên, xuân thủ, yên ba thâm xứ. Việc so sánh đối chiếu đó đã đem lại hiệu quả là học sinh nắm vững đặc điểm của mỗi thể loại, nhận ra đặc điểm đó trong các bài thơ Đường và chỉ ra được những bài thơ không đáp ứng được những yêu cầu trên. Ví dụ 3: Tương tự nh− vậy tôi đã áp dụng phương pháp này vào việc dạy văn bản tự sự. Trong văn bản “Sống chết mặc bay” tôi đã tận dụng triệt để phương pháp so sánh đối chiếu để
File đính kèm:
skkn_su_dung_phuong_phap_so_sanh_doi_chieu_trong_day_hoc_ngu.pdf