SKKN Giúp học sinh khám phá bản sắc vùng cao trong bài thơ “Nói với con” của nhà thơ Y Phương

Ai đó đã từng nói: Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến với xứ sở của cái đẹp. Đúng vậy, mỗi tác phẩm văn học là một xứ sở đẹp đẽ được nhà văn chưng cất nên từ hiện thực cuộc sống. Vì vậy, sứ mệnh của những người dạy văn chúng ta là làm sao qua mỗi giờ học văn, qua mỗi tác phẩm văn chương, người giáo viên, đồng thời là những người dẫn đường giúp học sinh đến được với xứ sở của cái đẹp bằng tất cả cảm xúc, sự rung động của tâm hồn, để bằng cách đó, văn học góp phần bồi đắp và nâng đỡ tâm hồn cho các em.

Trong phạm vi bản SKKN này, tôi muốn trao đổi về một hướng đi, một con đường giúp các em học sinh đến với xứ sở đẹp đẽ đó - vẻ đẹp của Bản sắc vùng cao trong bài thơ “Nói với con”của nhà thơ Y Phương (Ngữ văn 9 – Tập 2). Là một trong những tác phẩm mới được đưa vào chương trình SGK đổi mới gần đây nhất, “Nói với con”đã được giáo viên, học sinh đón nhận một cách nhiệt tình, đầy hứng thú. Phải chăng vì bài thơ mang một diện mạo khá mới mẻ, một thanh điệu khá độc đáo với một sức hấp dẫn rất mạnh mẽ. “Nói với con”thực sự là một tác phẩm đặc sắc, không chỉ tiêu biểu cho “Tiếng hát tháng giêng”, cho hồn thơ mạnh mẽ, chân chất của Y Phương, bài thơ còn được đưa vào chương trình Ngữ văn 9 như một mẫu mực về cả nội dung và nghệ thuật của thơ ca miền núi, đồng thời lại thể hiện một giọng điệu mới, một phong cách lạ.

pdf 26 trang Huy Quân 01/04/2025 360
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Giúp học sinh khám phá bản sắc vùng cao trong bài thơ “Nói với con” của nhà thơ Y Phương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Giúp học sinh khám phá bản sắc vùng cao trong bài thơ “Nói với con” của nhà thơ Y Phương

SKKN Giúp học sinh khám phá bản sắc vùng cao trong bài thơ “Nói với con” của nhà thơ Y Phương
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
GIÚP HỌC SINH KHÁM PHÁ 
BẢN SẮC VÙNG CAO TRONG 
BÀI THƠ “NÓI VỚI CON” CỦA 
NHÀ THƠ Y PHƯƠNG 
PHẦN 1: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
Ai đó đã từng nói: Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn 
đường đến với xứ sở của cái đẹp. Đúng vậy, mỗi tác phẩm văn học là một xứ sở 
đẹp đẽ được nhà văn chưng cất nên từ hiện thực cuộc sống. Vì vậy, sứ mệnh của 
những người dạy văn chúng ta là làm sao qua mỗi giờ học văn, qua mỗi tác phẩm 
văn chương, người giáo viên, đồng thời là những người dẫn đường giúp học sinh 
đến được với xứ sở của cái đẹp bằng tất cả cảm xúc, sự rung động của tâm hồn, để 
bằng cách đó, văn học góp phần bồi đắp và nâng đỡ tâm hồn cho các em. 
Trong phạm vi bản SKKN này, tôi muốn trao đổi về một hướng đi, một con 
đường giúp các em học sinh đến với xứ sở đẹp đẽ đó - vẻ đẹp của Bản sắc vùng 
cao trong bài thơ “Nói với con”của nhà thơ Y Phương (Ngữ văn 9 – Tập 2). 
Là một trong những tác phẩm mới được đưa vào chương trình SGK đổi mới 
gần đây nhất, “Nói với con”đã được giáo viên, học sinh đón nhận một cách nhiệt 
tình, đầy hứng thú. Phải chăng vì bài thơ mang một diện mạo khá mới mẻ, một 
thanh điệu khá độc đáo với một sức hấp dẫn rất mạnh mẽ. 
“Nói với con”thực sự là một tác phẩm đặc sắc, không chỉ tiêu biểu cho “Tiếng 
hát tháng giêng”, cho hồn thơ mạnh mẽ, chân chất của Y Phương, bài thơ còn được 
đưa vào chương trình Ngữ văn 9 như một mẫu mực về cả nội dung và nghệ thuật 
của thơ ca miền núi, đồng thời lại thể hiện một giọng điệu mới, một phong cách lạ. 
 Bài thơ là lời tâm tình của người cha với con về cội nguồn sinh dưỡng, về 
vẻ đẹp truyền thống đáng quí của quê hương, là tình yêu, niềm tự hào về sức sống 
bền bỉ của dân tộc mình, là khát vọng, niềm tin về cuộc sốngTất cả đã được chở 
tải bằng một giai điệu rất mới, một phong cách hết sức độc đáo – làm nên một bản 
sắc riêng không thể trộn lẫn với bất cứ ai. Đó là vẻ đẹp của ngôn từ, của hình 
ảnh, của giọng điệu, của cảm xúc, lối tư duyTât cả cứ chảy trên đầu ngọn bút, 
phơi bày trên trang giấy, tự nhiên, ấm áp như hơi thở, như dòng máu của người 
Tày vậy ! 
Bài thơ đã tồn tại trong chương trình Ngữ văn 9 gần chục năm nay, một thời 
gian chưa phải là dài nhưng rõ ràng là cũng không còn quá mới mẻ. Thế nhưng 
trên thực tế giảng dạy cũng như các nguồn tài liệu hướng dẫn giành cho giáo viên, 
chúng tôi nhận thấy chưa thực sự đáp ứng được những điều đã nói trên. Tôi đã 
từng được dự tiết dạy này trong hội thi giáo viên giỏi cấp tỉnh, trong các đợt thực 
tập dạy bài khó ở một số trường, cũng như đã tham khảo những tài liệu hướng dẫn 
của NXBGD ban hànhTất cả đều có một điểm chung, đó là họ hơi nặng về 
những giá trị tư tưởng, những ý nghĩa giáo dục, trong khi đó những vẻ đẹp vô cùng 
đặc sắc của một áng thơ ca miền núi lại không được quan tâm đúng mực, mà theo 
tôi đó mới là những gì làm nên sức sống, làm nên một diện mạo đầy ấn tượng của 
bài thơ “Nói với con”. 
Với những lí do trên, tôi xin đưa ra một số ý kiến trong việc dạy bài thơ “Nói 
với con”mà tôi đã trải nghiệm được trong quá trình giảng dạy và dự giờ của các 
đồng nghiệp 
PHẦN 2: NỘI DUNG ĐỀ TÀI 
I. MỘT SỐ THÔNG TIN CẦN NGHIÊN CỨU KHI THỰC HIỆN BÀI DẠY: 
1. Về nhà thơ Y Phương và bài thơ “Nói với con”. 
* Y Phương (1948) tên thật là Hứa Vĩnh Sước, sinh ra và lớn lên trên mảnh 
đất Trùng Khánh – Cao Bằng. Một mảnh đất mà như lời thơ ông từng giới thiệu: 
có cái gió Thổi ầm ầm / Dội ào ào / Chén rượu vừa rót ra / Đã lạt đi một nửa / 
Chén trà vừa rót ra / Đã nguội tanh, nguội ngắt (Gió Phủ Trùng). 
Thấm nhuần những tinh hoa, cái đẹp của của dân tộc Tày, Y Phương là một 
đại diện tiêu biểu của thơ ca các dân tộc thiểu số. Ông ghi dấu tên mình vào đời 
sống văn học Việt Nam từ bài thơ “Tiếng hát tháng giêng”– giải A cuộc thi thơ tạp 
chí văn nghệ quân đội 1984. Và cũng từ đây, cuộc đời ông gắn bó với thơ như một 
duyên nghiệp và lẽ sống. Hơn 20 năm qua, Y Phương đã công bố 6 tập thơ: Tiếng 
hát tháng giêng (1986); Lời chúc (1987); Đàn then (1996); Chín tháng (1998); Thơ 
Y Phương (2000); Ngược gió (2006). 
Thơ Y Phương được ví như “một bức tranh thổ cẩm được đan dệt nhiều màu 
sắc khác nhau, phong phú và đa dạng, nhưng trong đó có một màu sắc chủ đạo, 
âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo”(Từ điển tác giả, tác 
phẩm văn học Việt Nam) 
Bằng những gì đã đóng góp, bằng tài năng và một quá trình lao động nghệ 
thuật nghiêm túc, ông đã thực sự làm rạng danh cho thơ Tày và góp một giọng 
điệu lạ cho thơ Việt thế kỉ XX. 
 * “Nói với con”được viết vào năm 1980. Nhà thơ tâm sự: Đó là thời điểm đất 
nước ta gặp vô vàn khó khăn Bài thơ là lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu 
lòng. Tâm sự với con, còn là tâm sự với chính mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lí 
do lớn nhất để bài thơ ra đời chính là lúc tôi dường như không biết lấy gì để vịn, 
để tin. Cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả, gấp gáp kiếm tìm tiền bạc. Muốn sống 
đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào văn hóa. Phải tin vào 
những giá trị tích cực, vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi 
muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ bằng văn hóa (TT & 
VH Online. Chủ nhật 15/6/2008). Có lẽ đó cũng là một trong những nguyên nhân 
để bài thơ dù viết về một đề tài hết sức quen thuộc nhưng hoàn toàn có một lối đi 
riêng, một giai điệu mới. 
 Mượn lời của người cha nói với đứa con yêu dấu, bài thơ thể hiện tình cảm 
gia đình đầm ấm, nghĩa tình quê hương tha thiết ngọt ngào, là tiếng hát ngợi ca 
truyền thống, sức sống bền bỉ của dân tộc mình, để qua đó, dường như Y Phương 
muốn làm một cuộc sắp xếp hành trang cho con lên đường, bước vào đời. 
 Bài thơ không dài, chỉ với 28 câu thơ tự do, nhỏ xinh; hồn hậu trong cảm 
xúc; mạnh mẽ trong ý chí; ngọt ngào, rắn rỏi trong giọng điệu; gân guốc trong tư 
duy, cách xây dựng hình ảnhTất cả như bật ra từ vô thức, tất cả thật bình dị, chất 
phác như tâm hồn người Tày, như cuộc sống của quê hương nhà thơ vậy! 
 2. Bản sắc vùng cao trong bài thơ “Nói với con” 
Đọc thơ Y Phương, người ta dễ bị hút hồn bởi bản sắc vùng cao rất riêng và 
đậm đà. Thật khó mà lí giải được một cách tường tận, rạch ròi rằng cái bản sắc ấy 
được thể hiện ở đâu, như thế nào, nhưng có một điều mà ai cũng cảm nhận được 
rằng: phải là một con người được sinh ra, lớn lên, được nuôi dưỡng bằng chính 
nguồn mạch của núi rừng mới cất lên được tiếng nói mang đầy âm hưởng của cuộc 
sống vùng cao như vậy. “Nói với con”là một bài thơ tiêu biểu cho âm hưởng ấy. 
Trong phạm vi bài viết này, tôi xin được nêu ra một số biểu hiện đặc trưng nhất, 
như là những định hướng cơ bản khi thực hiện giờ dạy. 
 *Về ngôn ngữ, hình ảnh thơ: 
Có ý kiến cho rằng: Đọc bài thơ Nói với con người ta dễ quên đi sự tỉnh táo để 
lí giải, cắt nghĩa về vẻ đẹp trong từng câu chữ. Đúng vậy, bởi đó là một thứ ngôn 
ngữ quá tự nhiên, quá mộc mạc, như hơi thở, như cuộc sống, như dòng máu của 
người Tày chảy qua đầu ngọn bút mà thành thơ vậy: 
 Chân phải bước tới cha 
 Chân trái bước tới mẹ 
 Một bước chạm tiếng nói 
 Hai bước tới tiếng cười. 
Những câu thơ là những lời kể, tả hết sức bình dị: Chân phải, chân trái, một 
bước, hai bướcThế mà đủ để cho người đọc cảm nhận rõ một không gian đầy ắp 
sự ríu rít ngọt ngào của một gia đình đầm ấm, với những bước đi chập chững của 
con, với tiếng nói cười rộn rã, với vòng tay nâng niu đón chờ của mẹ cha. Từ 
“chạm”được sử dụng rất tự nhiên nhưng mang rõ dấu ấn sáng tạo của nhà thơ. 
Tiếng cười nói vốn là âm thanh vô hình, nhưng đã được hữu hình hóa, cụ thể hóa 
qua từ “chạm”, khiến chúng ta như thấy rõ niềm vui, sự hạnh phúc đang tràn ngập 
khắp cả ngôi nhà. 
 Tác giả đã vận dụng lối diễn đạt của người vùng cao để xây dựng hình ảnh 
thơ. Những hình ảnh vừa cụ thể, gần gũi, vừa mang tính khái quát cao, giàu ý 
nghĩa biểu tượng. Bình dị, mộc mạc nhưng lại mang vẻ đẹp nên thơ: 
 Người đồng mình yêu lắm con ơi 
 Đan lờ cài nan hoa 
 Vách nhà ken câu hát 
 Rừng cho hoa 
 Con đường cho những tấm lòng. 
Dụng cụ để bắt cá, dưới bàn tay của người Tày cũng trở thành một vật dụng 
mang tính nghệ thuật. Vách nhà không chỉ đan bằng tre, gỗ mà còn được ken bằng 
cả những câu hát ấm áp. Từ “ken”được kết hợp với từ chỉ âm thanh, một sự kết 
hợp giữa cái cụ thể với cái vô hình, tạo nên một hiệu quả biểu đạt khá cao: Đẹp 
biết bao và đáng yêu biết nhường nào, tâm hồn của “người đồng mình”: lãng mạn, 
vui tươi, trong sáng đến vô cùng. 
Có thể nói, ngôn từ, hình ảnh trong thơ Y Phương không phải bao giờ cũng 
cắt nghĩa, lí giải một cách tường tận rõ nghĩa trắng đen thành lời mà cái chính là 
người đọc phải cảm nhận được cái linh hồn thần thái của nó. Rất cụ thể mà giàu 
sức khái quát, có khi mơ hồ, có vẻ như vô lí mà lại hết sức có lí, hết sức chân thật - 
đó cũng là điểm thú vị trong bài thơ “Nói với con”. 
 Người đồng mình thương lắm con ơi 
 Cao đo nỗi buồn 
 Xa nuôi chí lớn 
Một cách nói mang đậm dấu ấn, cách tư duy của người miền núi. Lấy cái cụ 
thể làm thước đo cho cái trìu tượng. Lấy cái cao, cái xa của đất trời để đo kích cỡ 
của nỗi buồn và chí hướng. Những nỗi niềm, khát vọng của họ mang tầm vóc của 
núi cao sông dài. Cũng từng gặp cách nói này của ông trong một bài thơ khác: Con 
ơi / Cha muốn giữ nỗi buồn này lại / Rồi thả cái khát khao ra cùng với gió trời 
(Tay trái) 
Cuộc sống vất vả, nghèo đói, lam lũ, cực nhọc nhưng họ có chí khí, sức mạnh 
và niềm tin: Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương- là một trong những 
câu thơ mang âm hưởng sử thi hào sảng, kiêu hãnh thường bắt gặp trong thơ Y 
Phương chặng đầu. Hình ảnh “Đá”xuất hiện lần thứ hai trong bài thơ và rất nhiều 
lần trong sáng tác của ông như một ám ảnh không nguôi. Gâp ghềnh gian khó là 
Đá (Sống trên đá không chê đá gập ghềnh), cứng cỏi, hiên ngang cũng là Đá. 
Người đồng mình đục đá kê cao quê hương bằng “bàn tay đẽo đá”và “bàn chân 
đạp bằng đá sắc”. Hình ảnh thơ làm rạng ngời lên vẻ đẹp quê hương, vẻ đẹp của ý 
chí bền bỉ, của đức tính cần cù nhẫn nại

File đính kèm:

  • pdfskkn_giup_hoc_sinh_kham_pha_ban_sac_vung_cao_trong_bai_tho_n.pdf