SKKN Câu tiếng việt và phương pháp chữa lỗi câu Tiếng Việt cho học sinh

Môn Ngữ văn là môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng tình cảm cho học sinh. Nhà văn hào Nga Mác-XimGor-Ki đã nói: “Học văn là học làm người”.

Học tốt môn ngữ văn giúp học sinh rất nhiều trong giao tiếp với đời sống xã hội, giao tiếp với đời sống gia đình và bạn bè. Và dù sau này bước vào đời, học sinh có thể tham gia mọi ngành nghề phục vụ xã hội, môn Ngữ văn luôn luôn là phương tiện, là người bạn tốt trên đường đời của mỗi học sinh, giúp các em sống tốt hơn, đẹp hơn.

pdf 19 trang Huy Quân 29/03/2025 240
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Câu tiếng việt và phương pháp chữa lỗi câu Tiếng Việt cho học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Câu tiếng việt và phương pháp chữa lỗi câu Tiếng Việt cho học sinh

SKKN Câu tiếng việt và phương pháp chữa lỗi câu Tiếng Việt cho học sinh
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
CÂU TIẾNG VIỆT VÀ 
PHƯƠNG PHÁP CHỮA 
LỖI CÂU TIẾNG VIỆT 
CHO HỌC SINH 
 A. Đặt vấn đề 
I. Lời nói đầu: 
 Môn Ngữ văn là môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó nói 
lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng tình 
cảm cho học sinh. Nhà văn hào Nga Mác-XimGor-Ki đã nói: “Học văn là 
học làm người”. Học tốt môn ngữ văn giúp học sinh rất nhiều trong giao 
tiếp với đời sống xã hội, giao tiếp với đời sống gia đình và bạn bè. 
 Và dù sau này bước vào đời, học sinh có thể tham gia mọi ngành 
nghề phục vụ xã hội, môn Ngữ văn luôn luôn là phương tiện, là người bạn 
tốt trên đường đời của mỗi học sinh, giúp các em sống tốt hơn, đẹp hơn. 
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 
1. Thực trạng. 
 Rõ ràng là môn Ngữ văn có một vị trí quan trọng trong nhà trường 
phổ thông. Song có một thực trạng đáng buồn là hiện nay không ít học 
sinh thực sự không mặn mà với việc học văn “không chịu” đọc sách, báo 
và các tài liệu tham khảo, lười suy nghĩ, sáng tạo Chính vì thế mà trong 
khi nói cũng như khi viết, các em thường không diễn đạt được nội dung 
mình định nói do đó dẫn đến việc viết câu sai. 
 Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn, bản thân tôi thấy 
mình cần phải làm gì để giúp học sinh nhận ra lỗi viết câu sai là loại lỗi gì 
? nguyên nhân và cách sửa chữa. Từ đó, các em sẽ không chỉ biết viết câu 
sao cho đúng mà còn biết viết những câu hay, ý tứ. Chính vì lí do đó, tôi 
đã chọn đề tài “Câu Tiếng Việt và phương pháp chữa lỗi câu Tiếng Việt 
cho học sinh” 
2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên. 
 Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành khảo sát các lỗi về câu. Kết quả 
thu được như sau: 
Năm học Khối lớp 
Số 
lượng Lỗi 
Không 
lỗi Các loại chủ yếu 
Tỷ lệ 
(%) 
2005 - 2006 
7 
206 
85 
101 
- Thiếu các thành 
phần nòng cốt câu 
- Viết câu thiếu vế 
- Không ý thức rõ về 
thành phần phụ trạng 
ngữ với chủ ngữ 
- Sai quan hệ ngữ 
nghĩa giữa các thành 
phần trong câu 
- Sai quan hệ logic 
chủ đề - liên kết hình 
thức 
27,1 
22,3 
21,2 
15,3 
14,1 
B. Giải quyết vấn đề 
I. Các giải pháp thực hiện: 
1. Những yêu cầu cơ bản của việc viết câu 
1.1. Nội dung phải hợp lí về mặt logic và ngữ nghĩa 
- Câu phải có nghĩa, vì có nghĩa chúng ta mới hiểu được nội dung, 
mục đích thông báo. Muốn vậy dùng từ trong câu và viết chính tả phải 
đúng. 
 - Mặt khác, đứng về mặt ý nghĩa giữa các từ, các bộ phận trong câu 
không được mâu thuẫn nhau, mà phải thống nhất với nhau, ý của câu cũng 
phải thống nhất với ý của đoạn văn, của văn bản, đảm bảo sự phát triển 
liền mạch, liền ý của đoạn văn và văn bản. 
1.2. Câu trúc cú pháp của câu phải phù hợp với qui tắc tạo câu 
của Tiếng Việt. 
a) Câu phải có kết cấu nòng cốt. 
* Câu là một chỉnh thể ngữ pháp độc lập, chứa đựng một nội dung 
thông báo hoàn chỉnh và gắn với một hoàn cảnh giao tiếp nhất định. 
Câu có hai thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ. 
* Chủ ngữ nêu tên sự vật, hiện tượng có hành động, đặc điểm, trạng 
thái ... được miêu tả ở vị ngữ. Chủ ngữ thường đứng trước vị ngữ. 
 Ví dụ: Con bò đang gặm cỏ 
 CN VN 
 Chủ ngữ thường do danh từ đảm nhiệm, nhưng cũng có thể do động 
từ, tính từ đảm nhiệm. Chủ ngữ có thể được cấu tạo từ một từ hoặc một 
cụm từ. 
 * Vị ngữ chỉ ra hành động, trạng thái, tính chất, quan hệ của sự vật, 
hiện tượng nêu ở chủ ngữ. 
 Vị ngữ thường đứng sau chủ ngữ, do động từ, tính từ (cụm động từ, 
tính từ) hoặc do các từ, cụm từ khác đảm nhiệm. 
 * Giữa chủ ngữ và vị ngữ phải đảm bảo quan hệ hợp lí, chặt chẽ. 
 Thường thì trong câu chủ ngữ đứng trước, vị ngữ đứng sau. Chỉ 
trong những trường hợp hạn hữu, trong câu mới có hiện tượng đảo trật tự 
giữa chủ ngữ và vị ngữ. 
 Khi muốn nhấn mạnh ý, làm cho câu có tính gợi hình, gợi cảm 
người ta đảo vị trí của vị ngữ lên đầu câu. 
 Ví dụ: Lom khom dưới núi, tiều vài chú 
 VN CN 
 Lác đác ben sông, chợ mấy nhà 
 VN CN 
 Chỉ những câu vị ngữ là động từ nội động thì mới có thể đảo vị trí 
vị ngữ lên đầu được. 
 Ví dụ: Bạc phơ, mái tóc người cha 
 VN CN 
* Ngoài hai thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ thì câu cần có ngữ điệu 
thông báo. Đặc biệt khi hai thành phần chính của câu vắng mặt thì ngữ 
điệu càng trở nên quan trọng hơn. Vì thế, câu còn có các thành phần phụ. 
 b) Câu phải có quan hệ ngữ nghĩa hợp lí 
 Khi viết câu, nội dung câu phải hợp lí,có tính chất khách quan phù 
hợp với quy luật nhận thức. 
 Ví dụ : - Chim hót 
 - Bò đang gặm cỏ. 
 Chứ không thể đặt câu là : 
- Bò đang hót 
- Chim gặm cỏ 
Giữa chủ ngữ và vị ngữ phải hợp lí. Chủ ngữ thường nêu sự vật, 
hiện tượng, sự việc; vị ngữ nêu hành động, trạng thái, tính chất, đặc điểm 
 về sự vật, sự việc, hiện tượng chứ không thể ngược lại. 
Quan hệ giữa trạng ngữ với nòng cốt câu cũng phải đảm bảo sự 
logic, hợp lý. 
Ví dụ: Trên cánh đồng, mấy chú bò đang gặm cỏ 
 Tr.N CN VN 
 Chứ không thể có trạng ngữ: “Trên cành cây” mà nòng cốt câu lại 
là “mấy chú bò đang gặm cỏ”. 
 Giữa các vế trong câu ghép phải có sự hợp lý đảm bảo tính logic. 
Nếu vế thứ nhất là nguyên nhân thì vế thứ hai phải là kết quả (hoặc điều 
kiện - kết quả; giả thiết - kết quả ). Nếu câu không có kết cấu như thế là 
câu sai. 
 c) Đặt câu phải đảm bảo yêu cầu về mặt phong cách. 
 Câu trong phong cách hành chính khác với câu viết theo phong cách 
nghệ thuật, chính luận. 
 - ở văn bản hành chính - công cụ thường sử dụng những câu có cấu trúc 
chặt chẽ. Quan hệ giữa các thành phần, các vế câu được xác định rõ ràng, 
rành mạch, bố cục hợp lý, chặt chẽ không dài dòng. 
 - Trong văn bản nghị luận thường sử dụng từ ngữ toàn dân, những 
từ ngữ chính trị - xã hội. sử dụng biến hoá các loại câu trong lập luận, 
chứng minh giải thích, bình luận để thấu lý, đạt tình... 
 - Trong văn bản thuyết minh, có thể sử dụng rộng rãi các kiểu câu 
đơn câu phức theo một hệ thống cú pháp chuẩn. 
 - Đối với văn bản nghệ thuật việc sử dụng câu hết sức đa dạng, có 
đủ các loại câu theo mục đích phát ngôn, có đủ các kiểu câu chia theo cấu 
trúc nhằm đảm bảo tính thẩm mỹ, tính hình tượng và tính riêng về phong 
cách cá nhân. 
 Qua trên ta thấy khi đặt câu phải chú ý xem câu phù hợp với phong 
cách ngôn ngữ nào để viết câu cho đúng, phù hợp với đặc điểm phong 
cách ngôn ngữ đó. 
d) Các câu trong văn bản phải đảm bảo sự liên kết. 
 Văn bản là một thể thống nhất có tính trọn vẹn về nội dung và hoàn 
chỉnh về hình thức. Văn bản dù viết dưới hình thức nào, đều là một tập 
hợp gồm nhiều câu, nhiều đoạn nối với nhau. Việc sắp xếp, nối kết các 
câu trong đoạn, các đoạn trong văn bản không phải là hiện tượng ngẫu 
nhiên mà nó thể hiện ý đồ của người viết, hướng tới một nội dung chủ đề 
nhất định. Và như vậy, mối quan hệ ý nghĩa giữa câu với câu được gọi là 
liên kết câu. 
 Muốn liên kết câu phải đảm bảo nguyên tắc liên kết cả về nội dung 
và hình thức. 
 - Liên kết nội dung: Các câu trong đoạn văn về mặt nội dung có mối 
quan hệ qua lại lẫn nhau. Liên kết nội dung thể hiện ở hai bình diện: liên 
kết chủ đề và liên kết logic. Hai mặt này gắn bó chặt chẽ với nhau. 
 - Liên kết hình thức: Chính là việc sử dụng các phương tiện liên kết 
của ngôn ngữ để nối các câu làm cho chúng gắn bó chặt chẽ với nhau 
nhằm biểu hiện nội dung văn bản. Phương tiện liên kết có thể thuộc bình 
diện ngữ âm như vần, nhịp; có thể thuộc bình diện từ vựng như từ và 
thuộc bình diện ngữ pháp như kết cấu ngữ pháp. Các phương tiện đó rất đa 
dạng nhưng có thể quy về một số phương thức nhất định: Phương thức 
lặp; phương thức thế; phương thức liên tưởng; phương thức nối; phương 
thức trật tự tuyến tính 
 Trên đây là toàn bộ những yêu cầu cơ bản của việc viết câu. Dựa 
vào những yêu cầu cơ bản ấy mà chúng ta biết được câu viết đúng hay viết 
sai. Để từ đó nhận ra được lỗi câu mà có phương hướng chữa lỗi. 
2. Các giải pháp thực hiện 
 2.1. Phân loại lỗi. 
 Để phân loại lỗi câu sai, tôi đã dựa vào một số tiêu chuẩn sau: 
 - Thứ nhất là: dựa vào quan hệ hướng nội (tức là tổ chức nội bộ 
trong câu). 
 - Thứ hai là: dựa vào quan hệ hướng ngoại (tức là xem học sinh đã 
sử dụng việc liên kết câu theo chủ đề, logic hoặc dùng phương tiện liên 
kết không phù hợp như thế nào ?) 
sơ đồ phân loại lỗi: 
Lỗi câu 
Quan hệ 
hướng nội 
Quan hệ 
hướng 
Sai về mặt 
cấu tạo 
Sai về mặt 
ngữ nghĩa 
Lỗi về liên 
kết nội dung 
Lỗi về liên 
kết hình 
Sai 
kết 
cấu 
nòng 
cốt 
Câu 
ghép 
thiếu 
vế 
Quan 
hệ 
C - V 
không 
hợp 
TN 
với 
nòng 
cốt 
không 
hợp 
Thàn
h 
phần 
trong 
câu 
không 
Lỗi 
về 
liên 
kết 
chủ 
Lỗi 
về 
liên 
kết 
logic 
 Sau khi phân loại lỗi theo tiêu chuẩn như ở trên, tôi tiến hành miêu 
tả lỗi một cách chi tiết. ở đây, tôi chỉ xin đưa ra một số câu tiêu biểu cho 
mỗi dạng lỗi nằm trong phạm vi của đề tài. 
2.2. Miêu tả lỗi. 
* Lỗi do thiếu các thành phần nòng cốt của câu 
- Câu 1: Hè về, nở đỏ rực cả sân trường 
Câu này thiếu bộ phận chủ ngữ 
- Câu 2: Những kỷ niệm tuổi học trò 
Câu này thiếu bộ phận vị ngữ 
- Câu 3: Bằng nỗ lực của bản thân đã trở thành một học sinh giỏi 
Trong câu này, người viết nhầm tưởng “Bản thân” đã có thể làm 
chủ ngữ cho bộ phận đứng sau đó 
* Lỗi do các em sử dụng câu thiếu vế. 
- “Tuy Hồng rất chăm học, vâng lời bố mẹ”. 
ở câu trên các em đã dùng thiếu một vế theo cặp quan hệ từ: “Tuy 
nhưng. 
 - “Nếu ngày hôm qua bạn không chăm chỉ, chịu khó” Câu này cũng 
chỉ có vế phụ mà chưa có vế chính. 
* Lỗi do không ý thức rõ về thành phần trạng ngữ và chủ ngữ 
- “Qua nhân vật chị Dậu cho ta thấy rõ những đức tính cao đẹp 
đó”. 
ở câu này người viết đã hoà nhập chủ ngữ với phần phụ trạng ngữ 
của câu. 
* Lỗi do không ý thức rõ về trạng ngữ 
- “Những năm về sau, khi đã là một người thành đạt, dày dặn kinh 
nghiệm 
 ở câu này, người viết hiểu lầm chủ ngữ là “Những năm về sau” còn 
“Khi đã là ... kinh nghiệm” là vị ngữ trong khi nó chỉ là phụ 
* Lỗi do các em sử dụng câu thiếu phụ ngữ bắt buộc 
- “Mọi người đều lắng nghe. 
Câu này thiếu phụ ngữ đứng sau của cụm 

File đính kèm:

  • pdfskkn_cau_tieng_viet_va_phuong_phap_chua_loi_cau_tieng_viet_c.pdf