Sáng kiến kinh nghiệm Một vài suy nghĩ khi dạy bài “Ông đồ” của Vũ Đình Liên
Trong chương trình ngữ văn ở bậc THCS, học sinh được tiếp cận nhiều tác
phẩm thơ (Dân gian, Trung đại, Hiện đại). Chúng ta biết rằng phương thức chủ
yếu của thơ là phương trữ tình, nếu văn xuôi phản ánh cuộc sống qua cốt truyện và
nhân vật, thì thơ phản ánh những vấn đề xã hội thông qua đời sống tâm thế của
người nghệ sỹ - qua cảm xúc của nhà thơ. Vậy, giảng dạy một tác phẩm thơ, giáo
viên không có con đường nào khác là phải tiếp cận với cách cảm, cách nghĩ, cách
giải quyết cuộc sống thông qua cảm hứng chủ đạo của nhà thơ thể hiện một cách
sáng tạo trong từng tác phẩm. Rõ ràng, trách nhiệm của giáo viên Ngữ văn từ cách
cảm, cách nghĩ của mình mà định hướng giúp học sinh vừa thẩm nhận giá trị thẩm
mỹ vừa thu hoạch lí tưởng nhân văn của tác giả. Qua đó giúp các em đồng sáng
tạo với người nghệ sỹ để các em trải qua một qui trình tự nhận thức để hướng
thiện, hướng mỹ trong quá trình thu gom hành trang cuộc sống.
Nhà thơ Vũ Đình Liên xuất hiện trong thời kì đầu của phong trào Thơ mới bên
cạnh những tác giả có tên tuổi khai sáng như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông,
Nguyễn Nhược Pháp . Bài thơ “Ông đồ” là tác phẩm đặc sắc nhất trong sự
nghiệp sáng tạo thi ca của Vũ Đình Liên. Ngay từ khi ra đời tác phẩm được hai
nhà nghiên cứu phê bình Hoài Thanh, Hoài Chân đánh giá là “bài thơ kiệt tác”.
Trong chương trình Ngữ văn 8 cả cũ và mới đều đưa bài thơ “Ông đồ” vào
chương trình chính khóa vừa thấy được vai trò cũng như giá trị giáo dục, giáo
dưỡng của bài thơ trong chương trình cấp học. Trong bài thơ với một tấm lòng
giàu trắc ẩn, nhà thơ đã nhận ra một sự thật là phần đông các nhà nho còn sót lại
chỉ đáng thương (Nhà thơ từng tâm sự khi viết về bài thơ này: hình tượng ông đồ
“chính là cái di tích tiều tụy của một thời tàn”) và gián tiếp Vũ Đình Liên chỉ cho
ta thái độ hợp lí hơn đối với một lớp người trí thức đi trước. Bài thơ được xem là
một nghĩa cử. Đưa bài thơ vào chương trình cấp học có ý nghĩa giáo dục sâu sắc:
thông qua hình tượng ông đồ nhắc nhủ học sinh có thái độ ứng xử đúng đắn với
nhà nho, đạo Nho và rộng hơn là với nền văn hóa của dân tộc đồng thời bồi dưỡng
tâm hồn các em về tình nhân ái cao đẹp.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một vài suy nghĩ khi dạy bài “Ông đồ” của Vũ Đình Liên

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT VÀI SUY NGHĨ KHI DẠY BÀI “ÔNG ĐỒ” CỦA VŨ ĐÌNH LIÊN A. MỞ ĐẦU LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Trong chương trình ngữ văn ở bậc THCS, học sinh được tiếp cận nhiều tác phẩm thơ (Dân gian, Trung đại, Hiện đại). Chúng ta biết rằng phương thức chủ yếu của thơ là phương trữ tình, nếu văn xuôi phản ánh cuộc sống qua cốt truyện và nhân vật, thì thơ phản ánh những vấn đề xã hội thông qua đời sống tâm thế của người nghệ sỹ - qua cảm xúc của nhà thơ. Vậy, giảng dạy một tác phẩm thơ, giáo viên không có con đường nào khác là phải tiếp cận với cách cảm, cách nghĩ, cách giải quyết cuộc sống thông qua cảm hứng chủ đạo của nhà thơ thể hiện một cách sáng tạo trong từng tác phẩm. Rõ ràng, trách nhiệm của giáo viên Ngữ văn từ cách cảm, cách nghĩ của mình mà định hướng giúp học sinh vừa thẩm nhận giá trị thẩm mỹ vừa thu hoạch lí tưởng nhân văn của tác giả. Qua đó giúp các em đồng sáng tạo với người nghệ sỹ để các em trải qua một qui trình tự nhận thức để hướng thiện, hướng mỹ trong quá trình thu gom hành trang cuộc sống. Nhà thơ Vũ Đình Liên xuất hiện trong thời kì đầu của phong trào Thơ mới bên cạnh những tác giả có tên tuổi khai sáng như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp. Bài thơ “Ông đồ” là tác phẩm đặc sắc nhất trong sự nghiệp sáng tạo thi ca của Vũ Đình Liên. Ngay từ khi ra đời tác phẩm được hai nhà nghiên cứu phê bình Hoài Thanh, Hoài Chân đánh giá là “bài thơ kiệt tác”. Trong chương trình Ngữ văn 8 cả cũ và mới đều đưa bài thơ “Ông đồ” vào chương trình chính khóa vừa thấy được vai trò cũng như giá trị giáo dục, giáo dưỡng của bài thơ trong chương trình cấp học. Trong bài thơ với một tấm lòng giàu trắc ẩn, nhà thơ đã nhận ra một sự thật là phần đông các nhà nho còn sót lại chỉ đáng thương (Nhà thơ từng tâm sự khi viết về bài thơ này: hình tượng ông đồ “chính là cái di tích tiều tụy của một thời tàn”) và gián tiếp Vũ Đình Liên chỉ cho ta thái độ hợp lí hơn đối với một lớp người trí thức đi trước. Bài thơ được xem là một nghĩa cử. Đưa bài thơ vào chương trình cấp học có ý nghĩa giáo dục sâu sắc: thông qua hình tượng ông đồ nhắc nhủ học sinh có thái độ ứng xử đúng đắn với nhà nho, đạo Nho và rộng hơn là với nền văn hóa của dân tộc đồng thời bồi dưỡng tâm hồn các em về tình nhân ái cao đẹp. Điều đáng quan tâm bài thơ “Ông đồ” là một bài thơ trữ tình sâu sắc, giàu sức ám ảnh nhưng lại là một bài dạy khó. Bởi, những vấn đề trong bài thơ không gần gũi, thậm chí xa lạ với học sinh thời nay. Hơn thế, bài thơ có sự dồn nén về ngôn từ, lẫn tứ thơ, có rất nhiều khoảng lặng, gợi ra nhiều cách hiểu. Nên khi giáo viên tiếp cận với bài thơ để tìm một mạch đi đúng quả là một thách thức. Từ cơ sở lí luận và thực tiễn đó, tôi nghiên cứu về tác giả, tác phẩm, đặt tác phẩm trong quá trình sáng tác của tác giả, đặt tác giả trong thi pháp chung của trào lưu lãng mạn mà cụ thể là của phong trào Thơ mới để thể nghiệm trong quá trình định hướng khai thác bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên. B.NỘI DUNG: I. THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY 1. Khảo sát yêu cầu và định hướng của sách giáo khoa và sách giáo viên của lớp 8 cũ và mới: Sự gợi ý và định hướng của sách giáo khoa và sách giáo viên cũ và mới đều có chung một quan điểm: + 4 khổ thơ đầu của bài thơ đều miêu tả hình ảnh ông đồ ngồi viết câu đối bán trên hè phố ngày Tết qua cảm nhận của nhà thơ, nhưng ông đồ ở 2 khổ đầu và hình ảnh ông đồ ở 2 khổ sau là hai số phận, hai tâm trạng hoàn toàn khác nhau: - Hai khổ thơ đầu là hình ảnh ông đồ trong thời đắc ý của mình. Tết đến hoa đào nở lại thấy ông đồ cùng mực tàu, giấy đỏ bên hè phố, góp mặt vào sự đông vui, náo nhiệt của phố phường. Ông trở thành trung tâm của mọi sự chú ý, là đối tượng của sự ngưỡng mộ của mọi người. - Hai khổ thơ tiếp theo: hình ảnh ông đồ thời tàn. Vẫn là hình ảnh ông đồ với mực tàu giấy đỏ bên hè phố ngày Tết, nhưng tất cả đã khác xưa. Đường phố vẫn đông người qua nhưng không ai biết đến sự có mặt của ông. Ông vẫn cố bám lấy sự sống, vẫn muốn có mặt với cuộc đời nhưng cuộc đời thì đã quên hẳn ông. + Qua sự tương phản giữa hai cảnh tượng cùng miêu tả ông đồ ngồi viết câu đối ngày Tết và khổ cuối để thấy rõ tâm tư của nhà thơ: Tâm tư ấy được bộc lộ kín đáo qua những chi tiết miêu tả, nhưng có khi được nhà thơ trực tiếp phát biểu ( 2 câu thơ kết). Đó là niềm thương cảm chân thành đối với hoàn cảnh ông đồ đang tàn tạ trước sự thay đổi của thời cuộc, đồng thời đó còn là niềm nhớ nhung luyến tiếc trước những cảnh cũ người nay đã vắng bóng của nhà thơ. Như vậy, theo định hướng của sách giáo viên văn 8 (cũ và mới) đều tập trung phân tích hình tượng ông đồ qua cảm nhận của nhà thơ để từ đó thấy rõ tâm tư, tình cảm của Vũ Đình Liên trước thân phận con người và sự đổi thay của thời cuộc. Đó là một định hướng đúng. Song, cách hiểu hình ảnh ông đồ trong hai khổ đầu là thời kì đắc ý của ông đồ e là chưa thỏa đáng. Bởi, hình tượng ông đồ trong bài thơ ngay từ đầu đã là “di tích của một thời tàn”. Sự xuất hiện của ông đồ đã gắn với một thời điểm: thời điểm ông đi viết thuê, những nét chữ “phượng múa rồng bay” kia là để bày bán trên hè phố. Và qua hình tượng ông đồ trong bài thơ, nhà thơ không chỉ thể hiện niềm thương cảm cho số phận bất hạnh của một kiếp người mà còn là nỗi niềm hoài cổ lắng sâu. Trong những vui buồn, được mất của đời sống dân tộc, niềm tiếc thương cho những giá trị tinh thần của một thời vẫn là những ám ảnh day dứt với tất cả những tấm lòng biết trân trọng nhữnh giá trị tinh hoa của dân tộc. Do vậy, bài thơ “ Ông đồ” rung cảm sâu xa tâm hồn bao bạn đọc bởi nó gắn liền với một lớp người đáng kính, với một nét văn hóa đã ăn sâu vào tiềm thức nhiều thế hệ người Việt. Như vậy, khi nhắc đến hình ảnh ông đồ là “đánh động trong chúng ta nỗi buồn hoài cổ, sự tiếc nuối quá khứ vàng son, lòng thương xót số phận hẩm hiu của những nhà nhoNó chứa đựng cả một hệ vấn đề: bi kịch của sự gặp gỡ Đông-Tây, sự suy vong và cáo chung của một thời đại, sự biến mất vĩnh viễn của một lớp người”. Như vậy, định hướng khai thác bài thơ “Ông đồ” của sách giáo viên chưa thể hiện rõ mạch cảm xúc của chủ thể trữ tình và dường như là giảm đi sức ngân vang của thi phẩm trong lòng người đọc. 2. Thực tiễn dạy học của giáo viên Tuy định hướng chưa thật thỏa đáng như đã nói ở trên, nhưng trong cách trình bày của sách giáo viên đã có sự gợi ý khá chi tiết, đầy đủ, tạo hệ thống mạch đi rõ, cộng với quan niệm của đa số giáo viên: sách giáo viên bao giờ cũng đúng và chuẩn do vậy giáo viên chủ yếu dựa vào định hướng khai thác và sự gợi ý ấy để tìm hiểu tác phẩm mà chưa có sự trăn trở nhiều để tìm ra một hướng đi thích hợp cho bài dạy của mình. Chính vì lệ thuộc vào những gợi ý và định hướng khai thác của sách giáo viên nên giáo viên trực tiếp giảng dạy chưa chủ động đặt ra nhiều suy nghĩ: ông đồ trong bài thơ biểu tượng cho điều gì? Sự thất thế tàn lụi của ông đồ nêu vấn đề gì? Để từ đó thẩm thấu sâu sắc tình cảm và nỗi lòng của Vũ Đình Liên kí thác trong bài thơ. Hơn nữa, điều đáng chú ý là bài thơ là tiếng lòng của một người thuộc thế hệ trí thức Tây học trẻ tuổi ( Vũ Đình Liên sinh năm 1913, làm bài thơ này khi mới 23 tuổi – khi đang còn rất trẻ, chưa có nhiều trải nghiệm) đang lặng lẽ xót xa để viết, để ngậm ngùi, thương cảm trước “cái cảnh thương tâm của một nền nho học lúc mạt vận”. II.TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY BÀI THƠ “ÔNG ĐỒ” 1. Phần chuẩn bị a. Một số yếu tố ngoài văn bản giáo viên cần nghiên cứu để hỗ trợ cho bài giảng * Vài nét về phong trào thơ mới: (1) Thơ mới thuộc trào lưu văn học lãng mạn 30 -45 (Ở giao đoạn này có sự phát triển của nhóm Tự lực văn đoàn chuyên viết văn xuôi và phong trào thơ mới) (2) Về khái niệm thơ mới: + Đây là khái niệm có tính chất qui ước do Phan Khôi dùng đầu tiên trong bài viết “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” (năm 1932). Trong bài viết này Phan Khôi dùng khái niệm thơ mới để đối lập với thơ cũ. + Khái niệm thơ mới gắn với phong trào thơ mới – buổi bình minh của thơ ca Việt Nam hiện đại. + Thơ mới là cuộc cách mạng về thơ ca. Cuộc cách mạng này không chỉ là nội dung hay hình thức mà gồm cả hai gắn bó mật thiết với nhau “Thơ ta phải mới, mới về văn thể, về ý tưởng”. + Thơ mới là một bước phát triển quan trọng thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam. (3) Đặc điểm của thơ mới: (a) Về nội dung cảm hứng: + Thơ mới là tiếng nói khẳng định của cái tôi cá nhân, cá thể. Cái tôi được đưa lên bình diện đầu tiên – Cái tôi giàu khát vọng: khát vọng khẳng định bản thân trong đời sống, khát vọng về một thế giới ước mơ lí tưởng. Trước hết trong những bài thơ của thơ mới đã bộc lộ khát vọng được sống là mình – một khát vọng rất nhân bản. Thơ mới là một cuộc đi tìm mình do vậy trong những bài thơ mới xuất hiện nhiều định nghĩa về cái tôi “Tôi là người bộ hành phiêu lãng/ đường trần gian xuôi ngược để vui chơi”, “Ta là một là riêng là thứ nhất/Chẳng có ai bè bạn nổi cùng ta”Chính lúc cái tôi được giải phóng, nó có quyền lựa chọn và tự lựa chọn. Lúc ấy con người được tự do phơi trải lòng mình, nói cho hết nói cho nhiều mong một sự cảm thông bù đắp.. Do vậy âm điệu buồn tràn ngập các bài thơ. Đó là cái buồn của thế hệ trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ đang loay hoay với cái tôi bản ngã, thấy mình cô đơn, buồn đau, bất lực. Với những thất vọng cô đơn buồn đau ấy, cái tôi thoát li thực tại tìm đến thế giới ước mơ của cái đẹp. Những tâm hồn lãng mạn chạy trốn cuộc đời đã tìm vào cõi tiên , thoát li vào tình yêu, thiên nhiên hay vào tôn giáo. Giấc mộng thoát li ấy vừa cho ta thấy được vẻ đẹp của tâm hồn lãng mạn vừa hiểu hơn về tâm sự nỗi lòng của những trí thức tiểu tư sản trong cảnh nước mất nhà tan. Chính sự xuất hiện của cái tôi cá nhân đã làm nên cái mới của thơ ca lãng mạn“với dáng dấp mới, nhịp đập mới, sinh khí mới, thơ mới đã trả lại linh hồn và sức sống cho thơ ca”. + Như vậy, với sự khẳng định của cái tôi cá
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_vai_suy_nghi_khi_day_bai_ong_do_cu.pdf