Sáng kiến kinh nghiệm Khơi nguồn cảm hứng đối với môn Địa lí ở học sinh THCS
Cơ sở lí luận:
- Tâm lí học đại cương của nhóm tác giả Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thủy cho rằng khi ta có những hứng thú về một các gì đó thì cái đó bao giờ cũng dược ta ý thức, ta hiểu ý nghĩa của nó đối với cuộc sống của ta. Hơn nữa ở ta xuất hiện một tình cảm đặc biệt với nó. Vì vậy hứng thú lôi cuốn hướng dẫn chúng ta tiếp cận đối tượng và tạo nên tâm lí đi sâu tìm hiểu đối tượng. Do vậy hứng thú học tập có thể hiểu là sự tổng hợp cảm xúc, tình yêu và niềm đam mê tìm hiểu nghiên cứu tri thức môn học một cách chủ động, sáng tạo và tích cực của học sinh thông qua việc tổ chức các hoạt động của giáo viên.
- Nguồn cảm hứng đối với môn học sẽ là động lực quan trọng để học sinh vươn lên chiếm lĩnh kiến thức ở nhiểu mức độ khác nhau. Nếu trong quá trình học tập học sinh không có hứng thú học tập với một môn học nào thì chắc chắn kết quả học tập của môn đó sẽ không cao.
- Như chúng ta đã biết, địa lí là một môn học có tính tổng hợp. Đối tượng nghiên cứu của nó là tổng hợp thể lãnh thổ tự nhiên tồn tại khách quan trong thế giới khách quan và tổng hợp thể sản xuất, trong đó các yếu tố thành phần gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong quá trình học tập địa lí học sinh luôn phải tìm hiểu các mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng trong quá trình phát triển và biến đổi không ngừng của chúng. Những kiến thức đó góp phần cho học sinh thế giới quan duy vật biện chứng và sẽ dần hình thành tình yêu dối với môn học
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Khơi nguồn cảm hứng đối với môn Địa lí ở học sinh THCS
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TP BẮC GIANG TRƯỜNG THCS SONG MAI SÁNG KIẾN KHƠI NGUỒN CẢM HỨNG ĐỐI VỚI MÔN ĐỊA LÍ Ở HỌC SINH THCS Người thực hiện: Phùng Thị Thu Phương Lĩnh vực: Giáo dục và Đào tạo Song Mai, ngày 20 tháng 4 năm 2019 MỤC LỤC NỘI DUNG Trang Phần 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1 1. Cơ sở thực tiễn 1 2. Ý nghĩa và tác dụng của sáng kiến 1 3. Những mâu thuẫn cần giải quyết 2 Phần 2. NỘI DUNG 3 1. Cơ sở lý luận của sáng kiến 2 2. Thực trạng 2.1. Thuận lợi 2.2. Khó khăn 3 3 4 3. Các giải pháp 3.1. Áp dụng linh hoạt các phương pháp dạy học 3.2. Sử dụng kênh hình trong SGK 3.3. Vận dụng kiến thức liên môn 3.4. Sử dụng giáo án điện tử 3.5. Hội giảng, sinh hoạt chuyên môn 3.6. Tạo kịch tính trong giờ học 3.7. Tạo không khí lớp học 3.8. Đối với phụ huynh và học sinh. 7 7 8 8 10 11 12 12 13 4. Hiệu quả SKKN 13 Phần 3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 15 1. Kết luận 15 2. Kiến nghị 16 TÀI LIỆU THAM KHẢO 17 SÁNG KIẾN : KHƠI NGUỒN CẢM HỨNG ĐỐI VỚI MÔN ĐỊA LÍ Ở HỌC SINH THCS I/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1. Cơ sở thực tiễn: - Cha ông ta có câu: “ Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” (một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy). Câu nói ấy đến ngày nay dường như vẫn còn nguyên giá trị, cho dù sự phát triển kinh tế có làm thay đổi ít hay nhiều suy nghĩ ở một bộ phận người học trò. - Ngày nay khi đất nước ngày càng đổi mới, Đảng và nhà nước ta ngày càng quan tâm hơn đến sự nghiệp trồng người, luôn coi đây là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Cũng như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “ Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý” - Điều khiến tôi luôn băn khoăn, suy nghĩ đó là: Với xu thế phát triển của xã hội hiện nay thì dường như học sinh không láy làm mặn mà, hứng thú với môn học mang tính xã hội và môn Địa lí cũng không phải là một ngoại lệ. Không chỉ ở học sinh mà phụ huynh học sinh cũng cho rằng không cần thiết phải học môn Địa lí ( điều này càng thể hiện rất rõ khi các giáo viên Địa lí rất khó chọn được học sinh tham gia các đội tuyển bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí...). Hơn thế nữa một số giáo viên cũng tự xem đây là bộ môn PHỤ do vậy sự hào hứng khi tiếp cận môn Địa lí ở học sinh còn mờ nhạt. Thực tiễn về tình hình học tập môn Địa lí của học sinh trường THCS Song Mai cũng không phải là ngoại lệ 2/ Ý nghĩa và tác dụng: - A. Cômenxki ( 1592-1670) đã viết: “Giáo dục có mục đich đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách. Hãy tìm ra phương pháp cho phép giáo viên dạy ít hơn, học sinh học nhiều và tích cực hơn. - Ở Việt Nam từ cuối thập kỉ 80 bắt đầu xuất hiện những ý tưởng đề cao vai trò lợi ích của người học và để người học tự phát triển, hoặc sử dụng các phương pháp dạy học, các hình thức tổ chức dạy học phát huy được tinh thần chủ động lĩnh hội tri thức, tích cự sáng tạo. - Đến nay ngành Giáo dục vẫn không ngừng nghiên cứu, tìm ra những phương pháp giảng dạy mới nhằm phát huy tối đa sức sáng tạo của học sinh, nhằm đào tạo ra những thế hệ mới cho đất nước, những chủ nhân tương lai có đủ ĐỨC - TRÍ- THỂ - MĨ có thê gánh vác giang sơn đưa đất nước sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới. - Do vậy việc phát huy tích tích cực chủ động của học sinh trong các môn học là vô cùng cần thiết và đặc biệt với môn Địa lí thì hơn bao giờ hết học sinh phải thực sự có hứng thú mới đem lại kết quả tốt nhất. 3/ Những mâu thuẫn cần giải quyết - Từ việc nghiên cứu lý luận và xuất phát từ thực tiễn của trường THCS Song Mai tôi nhận thấy rằng cần phải giải quyết tốt một số mâu thuẫn còn tồn tại mà quan trọng nhất là mâu thuẫn giữa yêu cầu, chỉ tiêu đặt ra của bộ môn với thực tế trình độ nhận thức của học sinh. Điều mấu chốt ở đây là học sinh chưa thực sự hứng thú với môn học, chưa đánh giá đúng vai trò tầm quan trọng của bộ môn Địa lí. - Vậy phải làm gì để học sinh không quay lưng với môn học của mình, làm thế nào để học sinh vui khi cô giáo đến lớp thì cần phải có sự cố gắng thật nhiều của mỗi giáo viên. - Trong phạm vi hạn hẹp của đề tài, tôi muốn nói lên những khó khăn trong quá trình giảng dạy, cũng từ đó tôi đã rút ra một số kinh nghiệm giúp học sinh có được hứng thú hơn với môn Địa lý. Hi vọng đó sẽ là tài liệu tham khảo cho nhiều giáo viên đã và đang giảng dạy Địa lí như tôi. II/ PHẦN NỘI DUNG: 1/ Cơ sở lí luận: - Tâm lí học đại cương của nhóm tác giả Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thủy cho rằng khi ta có những hứng thú về một các gì đó thì cái đó bao giờ cũng dược ta ý thức, ta hiểu ý nghĩa của nó đối với cuộc sống của ta. Hơn nữa ở ta xuất hiện một tình cảm đặc biệt với nó. Vì vậy hứng thú lôi cuốn hướng dẫn chúng ta tiếp cận đối tượng và tạo nên tâm lí đi sâu tìm hiểu đối tượng. Do vậy hứng thú học tập có thể hiểu là sự tổng hợp cảm xúc, tình yêu và niềm đam mê tìm hiểu nghiên cứu tri thức môn học một cách chủ động, sáng tạo và tích cực của học sinh thông qua việc tổ chức các hoạt động của giáo viên. - Nguồn cảm hứng đối với môn học sẽ là động lực quan trọng để học sinh vươn lên chiếm lĩnh kiến thức ở nhiểu mức độ khác nhau. Nếu trong quá trình học tập học sinh không có hứng thú học tập với một môn học nào thì chắc chắn kết quả học tập của môn đó sẽ không cao. - Như chúng ta đã biết, địa lí là một môn học có tính tổng hợp. Đối tượng nghiên cứu của nó là tổng hợp thể lãnh thổ tự nhiên tồn tại khách quan trong thế giới khách quan và tổng hợp thể sản xuất, trong đó các yếu tố thành phần gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong quá trình học tập địa lí học sinh luôn phải tìm hiểu các mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng trong quá trình phát triển và biến đổi không ngừng của chúng. Những kiến thức đó góp phần cho học sinh thế giới quan duy vật biện chứng và sẽ dần hình thành tình yêu dối với môn học 2/ Thực trạng: 2.1 Thuận lợi: - Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo đặc biệt là Ban giám hiệu trường rất chú trọng đến việc nâng cao chất lượng dạy và học - Hiện tại trường THCS Song Mai có 17 /17 phòng học được trang bị tivi thông minh, loa và phương tiện trợ giảng( micrô, tai nghe...), một phòng học thông minh với các thiết bị hiện đại. - Ngoài ra môn địa lí còn được cấp nhiều phương tiện dạy học khác. Đặc biệt là: Tranh, ảnh, bản đồ, mô hình... - Đa số các em học sinh đều ngoan, có ý thức tổ chức kỉ luật tốt. 2.2/ Khó khăn: - Một số phụ huynh và học sinh còn cho rằng môn địa lí là môn phụ nên định hướng cho con em mình tập trung vào những môn như: Toán, lí, hóa, tiếng anh...để sau này có nhiều có hội tìm việc làm hơn nên chưa quan tâm đúng mức đến việc học bộ môn này. - Tài liệu tham khảo để giảng dạy và ôn luyện cho học sinh tham gia các kì thi còn thiếu thốn. Kĩ thuật cắt, chỉnh, sửa phim ảnh và ứng dụng các phần mềm dạy học trên máy tính của giáo viên chưa cao. - Học sinh của trường nhiều em nhận thức chậm, chưa chăm học. Nhiều học sinh vẫn giữ thói quen học thuộc lòng ghi nhớ máy móc không có hệ thống, học để đối phó...uy - Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy trong nhiều năm qua chất lượng học tập của một số môn học tương đối thấp, trong đó có môn địa lí. - Năm học 2018 - 2019 môn địa lí lớp 6A, 6B, 8C, 8D do tôi đảm nhiệm kết quả khảo sát đầu năm học như sau: Lớp TS Giỏi % Khá % Tb % Yếu, Kém % 6A 33 1 3.03 9 27.3 19 57.6 4 12.1 6B 31 4 12.9 10 32.2 14 45.2 3 9.7 8C 39 10 25.6 15 38.5 14 35.9 0 0 8D 34 2 5.9 11 32.3 17 50 4 11.7 Kết quả lấy ý kiến học sinh về môn học địa lí cuối học kì I: 2018 - 2019 Lớp TS Thích % Bình thường % Ghét % 6A 33 10 30.3 19 57.6 4 12.1 6B 31 14 45.2 14 45.1 3 9.7 8C 39 25 64.1 14 35.8 0 0 8D 34 13 38.2 17 50 4 11.7 à Kết quả không cao như sự mong đợi, kì vọng của tôi. Từ thực tế trên tôi đã suy nghĩ và tìm thấy những nguyên nhân dẫn đến kết quả như vậy là vì: 2.2.1 Thứ nhất: Môn địa lí là một môn học khó, được kết hợp từ cả kiến thức tự nhiên và kiến thức xã hội. Có nhiều khái niệm khó và trừu tượng. Trong khi đó một tiết học chỉ có 45 phút quá ít so với nội dung bài học: Ví dụ: Trong chương trình địa lí lớp 6 bài 7 “Sự vận động tự quay quanh trục của Trái Đất và các hệ quả” trong thời gian 45 phút giáo viên phải l;àm sáng tỏ các nội dung khái niệm như: + Hướng tự quay quanh trục của Trái Đất. + Thời gian tự quay quanh trục của Trái Đất. + Các khu vực giờ trên Trái Đất. + Khái niệm giò GMT( giờ gốc). + Cách tính giờ ở các khu cực trên Trái Đất. + Vì sao giờ phía Đông của khu vực giờ GMT lại đến sớm hơn giờ phía Tây của khu vực giờ GMT. + Vì sao kinh tuyến 1800 là kinh tuyến đổi ngày. + Hệ quả ngày và đêm. + Hệ quả sự chuyển động lệch hướng của các vật thể trên Trái Đất. à Như vậy trong bài này có 9 khái niệm giáo viên phải làm sáng tỏ trong khi đó học sinh lớp 6 còn rất mơ hồ thậm chí chưa từng nghe qua về những khái niệm nêu trên. Nội dung bài học đòi hỏi học sinh phải tiếp nhận một khối lượng kiến thức lớn trong một thời gian ngắn mà hết thảy đều là những khái niệm rất trừu tượng. Vì vậy để di hết nội dung giáo viên buộc phải lao động hết mình, thao tác nhanh chóng, vận dụng nhiều kĩ năng linh hoạt cho một tiết dạy để hướng dẫn học sinh nắm được hết nội dung của bài mà không chắc rằng học sinh của mình có thực sự hiểu bài hay không (đặc biệt ở những lớp lực học của học sinh ở mức độ yếu, nhận thức chậm). Chính điều này đã làm tăng sự chán học của học sinh, tạo cho học sinh áp lực đối với môn học. 2.2.2 Thứ hai: Với tâm lý coi môn địa lí là môn phụ nên nhiều học sinh chưa thực sự chăm chỉ, nghiên cứu bài trước khi đến lớp, về nhà không chịu khó làm bài tập. Kiểm tra sách vở, đồ dùng học tập của các em tôi thấy một số học sinh không có sách giáo khoa thậm chí còn không có vở ghi riêng của môn địa lí. Nhiều học sinh được gọi lên bảng nhiều lần để trả lời câu hỏi vấn đáp nhưng đều không thể lấy được điểm 5 (điểm trung bình) 2.2.3 Thứ ba: Đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy, việc trau dồi kiến thức thường xuyên và đổi mới phương pháp dạy học là một việc nên làm. Nhưng trong trong thực tế khi áp dụng phương pháp ... i kiến thức. - Để giúp học sinh khắc sâu kiến thức, kích thích nguồn cảm hứng học tập của học sinh bằng viếc sử dụng giáo án điện tử theo tôi khi dạy học giáo viên cần phải: + Kết hợp hài hòa giữa slide hình ảnh, các video clip và lời giảng, giữa màn hình và ghi bảng trong các hoạt động sao cho linh hoạt và uyển chuyển + Nghiêm túc xác định mục tiêu tiết dạy của mình + Có sự đầu tư cao trong việc tìm kiếm cắt chỉnh phim, ảnh, video để lấy được những tư liệu mang tính cập nhật, chính xác và sinh động nhất nhằm tránh tình trạng sử dụng quá nhiều hình ảnh và nhiều hiệu ứng gây tác dụng ngược và làm cho tiết học bị loãng. - Ngoài ra khi sử dụng giáo án điện tử kĩ năng sử dụng giáo án điện tử của giáo viên phải thật vững vàng để xử lý kịp thời những sự cố kĩ thuật có thể xảy ra trong tiết dạy giúp cho quá trình học tập được liên tục và hoàn chỉnh, tránh gây ra sự thất vọng và giảm hứng thú học tập của học sinh 3.5/ Theo tôi cần thường xuyên tổ chức hội giảng, sinh hoạt chuyên môn, thao giảng, tích cực trao đổi về chuyên môn với đồng nghiệp để có thể học hỏi và rút ra được những bài học quý báu cho bản thân từ đó có các sáng kiến để giúp học sinh tiép nhận môn học một cách tự nhiên, và hào hứng nhất. Việc có giáo viên dự giờ thì cần học sinh phải chuẩn bị tốt hơn bài hoc từ ỏ nhà. Trên lớp những tiết học có giáo viên dự giờ thường học sinh tập trung hơn, học tập sôi nổi tích cực, ý thức học tập được nâng cao. Đây là điều kiện để phát huy ý thức tự giác, sáng tạo trong học tập và thể hiện tài năng tạo được nguồn cảm hứng thực sự cho học sinh. 3.6/ Tạo kịch tính trong giờ học: - Thay vì giảng dạy theo trình tự bình thường giáo viên có thể biến tiết dạy của mình thành một vở kịch hay, một trò chơi, hoặc lồng ghép một đoạn kịch ngắn, âm nhạc, thơ ca vào bài dạy với những hình ảnh tình huống sống động khiến học sinh sảng khoái, muốn học và quên cả giờ ra chơi. Ví dụ: Khi dạy bài “ Đặc điểm sông ngòi Việt Nam” cuối giờ học giáo viên có thể dành 5 phút để các nhóm có thể chơi trò chơi tiếp sức viết tên các dòng sông của Việt Nam. Nếu đội nào thua thì phải hát một bài hát về một dòng sông bất kì trên lãnh thổ nước ta. Củng cố lại nội dung giáo viên cho học sinh nghe bài hát “ Chiều sông Thương” để kết thúc bài học. - Như vậy thông qua các hoạt động về vui chơi, giải trí bằng trò chơi và lồng ghép âm nhạc nêu trên tôi thấy học sinh thi đua học tập một cách tự giác, sáng tạo và không khí lớp học sôi động. Tài năng của học sinh được phát huy. - Thực tế cho thấy học sinh không chỉ nắm nội dung bài học một cách chủ động mà còn cảm nhận được cái đẹp của thiên nhiên, giá trị của các hoạt động sản xuất và lao động của con người, yêu đất nước, có ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc. Tạo được môi trường học tập thân thiện, vui tươi có sự đồng cảm giữa giáo viên và học sinh cũng như ngày càng hình thành ở học sinh tình yêu và cảm hứng thực sự đối với môn học. 3.7/ Giáo viên cần tạo không khí học tập thoải mái, cởi mở giúp học sinh có thể tự tin phát biểu hoặc đóng góp ý kiến xây dựng bài( dù đúng hay sai thì đều có mặt tích cực). Khi học sinh tích cực xây dựng bài và có những câu trả lời đúng giáo viên có thể thưởng điểm cao cho học sinh nhằm khuyến khích động viên các em và kích thích các em học sinh còn lại cũng tích cự suy nghĩ. 3.8/Đối với phụ huynh và học sinh: - Chúng ta nên khẳng định môn địa lí là môn học thực tế, rất đời thường song ứng dụng trong thực tế rất lớn và hiệu quả. Học địa lí ta hiểu chi tiết những đặc điểm về tự nhiên xa hội xảy ra xung quanh chúng ta. Cập nhật những thông tin kinh tế, văn hóa, xã hội trong và ngoài nước. - Thực tiễn cho thấy hiện nay môn địa lí đã trở thành một môn học được lựa chọn trong kì thi tuyển sinh vào THPT. Điều đó càng khẳng định vai trò quan trọng của môn học trong hệ thống giáo dục phổ thông và tính ứng dụng của nó trong cuộc sống. - Chính vì vậy phụ huynh hãy quan tâm hơn nữa đến tất cả các môn học trong đó có môn địa lí. - Còn học sinh các em đừng theo lối học đối phó, vì chắc chắn trong cuộc sống và sự nghiệp sau này của các em, kiến thức địa lí cũng là một hành trang theo suốt và giúp ích rất nhiều trong cuộc sống, trong hành trình chinh phục tri thức, và góp phần tạo dựng nên sự nghiệp của các em. * Trên đây là những kinh nghiệm của tôi được rút ra từ những tiết dạy của bản thân . Với tôi việc áp dụng những phương pháp dạy học nêu trên đã khơi gợi được hứng thú thực sự của học sinh đối với môn địa lí. Tôi nhận thấy rằng những phương pháp dạy học đó có nhiều triển vọng đối với quá trình nhận thức và tiếp nhận môn học của học trò và chất lượng học tập của các em sẽ nâng cao hơn. 4/ Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm: - Sau một thời gian giảng dạy, áp dụng theo các phương pháp dạy học nêu trên tôi thấy đã có sự chuyển biến rõ rệt - Trước hết tôi có cảm nhận rằng: Học sinh yêu thích môn địa lí hơn, hào hứng mỗi khi giáo viên bước vào lớp. Những lời nói rất ngay thơ, tự nhiên nhưng chân thành của các em khiến tôi cảm thấy ấm lòng và thậm chí còn tiếp thêm nguồn cảm hứng cho tôi trước khi bước vào lớp. Ví dụ: Khi tôi đi ngang qua của lớp( làm ra vẻ như quên giờ) thì học sinh trong lớp liền gọi: “Cô ơi vào lớp em mà...” thay vì trước đây học sinh thường nói: “ Cô địa, cô địa..”, hay “Cô địa đến rồi” - Sự chuyển biến của học sinh qua từng tiết học, với tinh thần học tốt hơn, thái độ khi ngồi trong lớp nghiêm túc hơn, và tinh thần xây dựng bài học trên lớp sôi nổi hăng say hơn. Có nhiều em học sinh thường hay đặt ra những câu hỏi liên quan tới kiến thức của bài học mà trong sách giáo khoa chưa đề cập tới. Có những em học sinh trước đây rất lì lợm, bất cần khi giáo viên đến lớp. Nhưng giờ các em cũng đã thay đổi không còn hiện tượng không ghi chép bài, không có sách giáo khoa. Nét mặt của các em chú ý hơn và thậm chí còn phát biểu xây dựng bài. Tôi hiểu rằng các em đang thay đổi và cũng hiểu rằng: Không phải các em quay lưng lại với môn học, với cô giáo mà chính giáo viên đã làm cho các em không hào hứng đón nhận môn học trong mỗi giờ lên lớp. - Niềm vui được nhân lên khi có những em học sinh còn chủ động xin vào đội tuyển học sinh giỏi và kết quả học tập của các em có sự tiến bộ rõ rệt. Từ kết quả tương đối thấp từ đầu năm học thì chỉ qua học kì (2018-2019) đã có nhiều nét khởi sắc rõ rệt. - Năm học 2018 - 2019 môn địa lí 6A, 6B, 8C, 8D do tôi đảm nhiệm kết quả khảo sát cuối học kì I như sau: Lớp TS Giỏi % Khá % Tb % Yếu, Kém % 6A 33 4 12.1 12 36.4 15 45.5 2 6.06 6B 31 6 19.3 14 45.2 10 32.2 1 3.2 8C 39 15 38.4 19 48.7 5 12.8 0 0 8D 34 5 14.7 15 44.1 12 35.3 2 5.9 Kết quả lấy ý kiến học sinh về môn học địa lí cuối học kì I ( 2018-2019) Lớp TS Thích % Bình thường % Ghét % 6A 33 16 48.5 15 45.4 2 6.1 6B 31 20 64.5 10 32.2 1 3.2 8C 39 34 87.2 5 12.8 0 0 8D 34 20 58.8 12 35.3 2 5.9 - Tuy kết quả thu được sau một học kì chưa được cao, chưa hoàn toàn như mong muốn của tôi. Nhưng qua đó tôi đã có thể hi vọng và tin tưởng rằng nếu thực sự cố gắng, nghiêm túc nghiên cứu và ứng dụng linh hoạt với nhiều đối tượng học sinh khác nhau thì tỉ lệ học sinh khá giỏi sẽ được nâng cao lên, đồng thời tỉ lệ học sinh yếu kém cũng sẽ ngày một giảm xuống. Song tôi nghĩ điều quan trọng nhất, hạnh phúc nhất là học sinh sẽ luôn nhiệt tình đón chào cô giáo trong mỗi giờ lên lớp và ngày càng yêu thích cũng như có nguồn cảm hứng bất tận với môn địa lí. III/ KẾT LUẬN, ĐỀ XUẤT: 1/Kết luận: - Trong khuôn khổ hạn hẹp của đề tài tôi không dám chắc những phương pháp của tôi có đủ sức thuyết phục đối với các anh chị em đồng nghiệp nhưng riêng tôi , tôi đã có thể hi vọng và tin tưởng rằng tôi sẽ làm được trong một tương lai không xa. Bởi lẽ trong suốt hơn 10 năm cầm phấn tôi đã không ngừng tìm tòi, nghiên cứu và đúc rút được ra những kinh nghiệm quý báu cho riêng mình và hôm nay tôi muốn chia sẻ những kinh nghiệm này với anh chị em đồng nghiệp đặc biệt là những thầy cô giáo đang trực tiếp giảng dạy môn địa lí. - Nếu chúng ta có thể tạo được niềm tin yêu thực sự của học sinh đối với môn học thì không những ý niệm môn ĐỊA LÍ là môn PHỤ sẽ dần mất đi mà mục tiêu hướng tới sự phát triển toàn diện của học sinh cũng sẽ được đáp ứng - Làm được điều đó tức là ta đã thực hiện được nhiệm vụ quan trọng của Đảng và nhà nước luôn khẳng dịnh “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Nghĩa là ta đã đóng góp một phần không nhỏ cho nền giáo dục tỉnh nhà nói riêng và nền giáo dục của đất nước nói chung. Đồng thời góp phần to lớn trong việc trang bị tri thức cho học sinh giúp các em có hành trang vững vàng để bước vào cuộc sống, trở thành những công dân có ích, chung tay góp sức xây dựng quê hương đất nước. 2/Đề xuất: 2.1/ Đối với giáo viên giảng dạy địa lí thì anh chị em nên dành thời gian nghiên cứu đầu tư tài liệu và xây dựng cho mình bộ giáo án hoàn chỉnh thể hiện những phương pháp dạy học tối ưu nhất và vận dụng linh hoạt đối với từng đối tượng học sinh trong từng tiết dạy nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất. Đồng thời qua đó cũng dần hình thành lòng đam mê và khơi gợi được nguồn cảm hứng thực sự của học sinh đối với môn địa lí. 2.2/ Đối với nhà trường: Ban giám hiệu cần quan tâm hơn nữa tới bộ môn địa lí như: Trang bị đầy đủ tranh, ảnh, bản đồ, mô hình (vì có một số bản đồ đã cũ không đảm bảo tính khoa học và thẩm mĩ) và có thể nhà trường cần dành thêm tiết học tự chọn trong kế hoạch dạy học (đặc biệt với học sinh khối 9) để giáo viên có thời gian rèn luyện thêm cho học sinh. IV/ TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Nguyễn Dược, Nguyễn Trọng Phúc (2001), Lí luận dạy học địa lí, NXBĐHQG Hà Nội. [2]. Nguyễn Đức Vũ, Phạm Thị Sen (2001) Đổi mới dạy học đị lí ở THCS, NXBGD. [3]. PGS.TS Trần Thị Lệ Thu, PGS.TS Trần Thành Nam, Th.s Nguyễn Thị Phương (2005) Cẩm nang tâm lí học đường, NXBGD. [4]. Nguyễn Thị Minh Phương - Phạm Thị Thúy - Lê Viết Trung (Tái bản 2016). Cẩm nang phương pháp sư phạm. XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG HIỆU TRƯỞNG NGƯỜI VIẾT BÁO CÁO NGUYỄN VĂN HÙNG PHÙNG THỊ THU PHƯƠNG
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_khoi_nguon_cam_hung_doi_voi_mon_dia_li.doc