Sáng kiến kinh nghiệm Khắc phục lỗi chính tả ngữ pháp cho học sinh dân tộc Khmer
Tiếng Việt là tiếng phổ thông, là ngôn ngữ chung của cộng đồng dân tộc Việt
Nam. Năm 1969, Quyết định 153 – CP của thủ tướng chính phủ đã cụ thể hóa vai trò
TV trong đời sống đồng bào dân tộc thiểu số: “Tất cả các dân tộc trên lãnh thổ Việt
Nam đều cần học và dùng tiếng, chữ phổ thông là ngôn ngữ chung của cả nước. Nhà
nước cần ra sức giúp đỡ các dân tộc thiểu số học biết nhanh tiếng, chữ phổ thông”. Và
Quyết định 53 – CP của Hội đồng chính phủ (1980) nêu rõ: “Tiếng và chữ phổ thông là
ngôn ngữ chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nó là phương tiện giao lưu không
thể thiếu được giữa các địa phương và các dân tộc trong cả nước, giúp cho các địa
phương và các dân tộc có thể phát triển đồng đều các mặt kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ
thuật Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và thực hiện quyền bình đẳng dân tộc”.
Cho nên học sinh dân tộc Khmer cũng giống như những HS các dân tộc khác khi đến
trường đều sử dụng chung một ngôn ngữ, đó là tiếng Việt.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Khắc phục lỗi chính tả ngữ pháp cho học sinh dân tộc Khmer

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM KHẮC PHỤC LỖI CHÍNH TẢ NGỮ PHÁP CHO HỌC SINH DÂN TỘC KHMER PHẦN MỞ ĐẦU I. BỐI CẢNH CỦA ĐỀ TÀI 1. Tiếng Việt - ngôn ngữ chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam Tiếng Việt là tiếng phổ thông, là ngôn ngữ chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Năm 1969, Quyết định 153 – CP của thủ tướng chính phủ đã cụ thể hóa vai trò TV trong đời sống đồng bào dân tộc thiểu số: “Tất cả các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam đều cần học và dùng tiếng, chữ phổ thông là ngôn ngữ chung của cả nước. Nhà nước cần ra sức giúp đỡ các dân tộc thiểu số học biết nhanh tiếng, chữ phổ thông”. Và Quyết định 53 – CP của Hội đồng chính phủ (1980) nêu rõ: “Tiếng và chữ phổ thông là ngôn ngữ chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nó là phương tiện giao lưu không thể thiếu được giữa các địa phương và các dân tộc trong cả nước, giúp cho các địa phương và các dân tộc có thể phát triển đồng đều các mặt kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và thực hiện quyền bình đẳng dân tộc”. Cho nên học sinh dân tộc Khmer cũng giống như những HS các dân tộc khác khi đến trường đều sử dụng chung một ngôn ngữ, đó là tiếng Việt. 2. Trường THPT Dân Tộc Nội Trú An Giang – nơi giao thoa giữa hai ngôn ngữ Trường THPT Dân Tộc Nội Trú An Giang, năm học 1992 – 1993, có 354 học sinh với các lớp 6, 7, 8. Đến năm học 1996 – 1997, trường có lớp 12 đầu tiên. Trong những năm gần đây, trường đã ổn định, mỗi khối có 3 lớp từ khối 6 đến khối 12 với tổng số 684 học sinh. Phần lớn học sinh của trường là người dân tộc Khmer. Trong đó chỉ có khoảng 10% là học sinh người Kinh thuộc diện chính sách và khoảng 20% là học sinh dân tộc Khmer có cha hoặc mẹ gốc người Kinh. Ở đây, các em sinh sống và học tập trong một cộng đồng thu nhỏ của dân tộc mình. Cho nên khi tiếp xúc với tiếng Việt trong học tập, các em có điều kiện thuận lợi hơn so với những học sinh dân tộc Khmer đang học ở các trường phổ thông khác. Vì các em được giao tiếp bằng song ngữ : tiếng Việt – tiếng Khmer. Bên cạnh đó, một số giáo viên người dân tộc Khmer, kể cả giáo viên người Kinh được học tiếng Khmer đã giúp các em giải tỏa được một phần nào trong việc tiếp thu kiến thức. Nhưng nhìn chung, học sinh dân tộc Khmer vẫn còn gặp nhiều khó khăn khi học tiếng Việt. Đối với học sinh dân tộc Khmer, tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai. Ngôn ngữ thứ nhất là tiếng mẹ đẻ, là ngôn ngữ dân tộc Khmer mà các em sử dụng để giao tiếp trong phạm vi đời sống phum sóc của cộng đồng dân tộc mình. Tiếng Việt , tuy là ngôn ngữ thứ hai đối với người dân tộc Khmer nhưng là ngôn ngữ chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Khi tiếp xúc với chương trình giáo dục phổ thông, HS dân tộc Khmer lại gặp sự bất đồng ngôn ngữ nên sử dụng tiếng Việt còn nhiều hạn chế về phát âm, dùng từ, đặt câu. Đồng thời do sự tiếp xúc giữa tiếng Việt – tiếng Khmer làm nảy sinh hiện tượng giao thoa ngôn ngữ. Do đó, quá trình tiếp xúc với tiếng Việt trong nhà trường phổ thông của học sinh dân tộc Khmer bị “rào cản ngôn ngữ”. Trong các văn bản nói và viết của học sinh thường sai phạm qui tắc tiếng Việt. Các em mắc lỗi chính tả, từ vựng, ngữ pháp tiếng Việt nhiều hơn so với học sinh người Kinh. Đây là một bài toán khó cho những giáo viên đang giảng dạy ở các trường phổ thông có học sinh dân tộc. 3. Lịch sử nghiên cứu – lỗi chính tả, ngữ pháp 3.1. Những bài viết về lỗi chính tả, ngữ pháp Nguyễn Minh Thuyết, “Ngôn ngữ” số 3, năm 1974, nêu lên một số kiểu lỗi ngữ pháp và cách sửa chữa trong bài “Mấy gợi ý về việc phân tích sửa chữa lỗi ngữ pháp cho học sinh”. Nguyễn Xuân Khoa, “Ngôn ngữ” số 1, năm 1975, trình bày một số lỗi về qui tắc cấu tạo câu trong bài “Lỗi ngữ pháp của học sinh – nguyên nhân và cách sửa chữa”. Nguyễn Đức Dân và Trần Thị Ngọc Lang, “Câu sai và câu mơ hồ”, 1993, đưa ra cách lý giải khá mới mẻ về câu sai. Các tác giả đi vào phân tích, lý giải hiện tượng câu sai và câu mơ hồ. “Lỗi ngữ pháp và cách khắc phục” do nhóm Cao Xuân Hạo, Lý Tùng Hiếu, Nguyễn Kiên Trường, Võ Xuân Trang, Trần Thị Tuyết Mai sử dụng phương pháp thực nghiệm xuất phát từ việc điều tra lỗi chính tả, từ vựng, ngữ pháp qua 5.000 bài viết của học sinh sinh viên và những bài trên các báo “Tuổi trẻ”, “Thanh niên”, “Công an”, “Kiến thức ngày nay” tìm hiểu nguyên nhân, phân loại lỗi, phân tích từng loại lỗi rồi đưa ra các bài tập có đáp án để người viết sử dụng rèn luyện và khắc phục. Trong “Tài liệu tham khảo soạn, giảng kỹ năng Làm Văn lớp 10”, Vụ giáo dục THPT, năm 1984, có bài viết “Chữa câu sai”, người viết nêu ra một số kiểu lỗi ngữ pháp như: “câu thiếu chủ ngữ”, “câu thiếu vị ngữ”, “câu thiếu chủ ngữ và vị ngữ”, “câu sai do chưa biết sử dụng các cặp từ quan hệ”, “thừa chủ ngữ” và “câu lủng củng, rườm rà”. Đối với mỗi kiểu lỗi sai, tác giả dẫn ra một vài ví dụ và hướng dẫn cách sửa cụ thể. Nội dung có giá trị gợi ý thiết thực cho GV khi dạy các tiết chữa câu sai. 3.2. Những bài viết về lỗi chính tả, ngữ pháp trong sách giáo khoa Sách giáo khoa “Làm Văn lớp 10”, năm 1991, Đinh Cao và Lê A đề cập lỗi câu sai và lỗi dùng từ sai. Các tác giả còn đưa ra “phương hướng sửa chữa câu sai” và “các thao tác chữa lỗi về từ”. Nhìn chung, các tác giả trình bày khá cụ thể. Sách giáo khoa “Tiếng Việt lớp 10”, hợp nhất chỉnh lý năm 2000, các tác giả Diệp Quang Ban, Đỗ Hữu Châu (tiết 4, 13, 27) có các bài “Yêu cầu chung về hành văn của các văn bản”, “Lựa chọn từ ngữ” và “Lỗi về câu”. Các bài tập đa dạng phong phú. Sách giáo khoa hiện hành, nhìn một cách tổng thể, chương trình Ngữ văn THPT kết cấu theo hướng tích hợp trong sự phân chia ba phân môn : Văn học – Tiếng Việt – Làm văn. Cả ba phân môn ấy, từ lớp 10 đến lớp 12, không có một bài dạy nào dành cho cách khắc phục lỗi dùng từ đặt câu một cách cụ thể như sách giáo khoa trước đây (đã nói ở phần trên). Nếu có thì chỉ có ở một vài bài : “Những yêu cầu sử dụng tiếng Việt” (Ngữ văn 10, tập 1), “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” (Ngữ văn 12, tập 1). Thực ra, nó cũng chưa đi sâu vào việc giúp cho học sinh nhận biết và sửa chữa những lỗi chính tả, từ ngữ, câu. Còn chương trình Ngữ văn THCS, sách giáo khoa Ngữ văn 6 có được một số bài dạy : “Chữa lỗi dùng từ”, “Chữa lỗi chủ ngữ và vị ngữ”. Theo Phân phối chương trình giảm tải môn Ngữ văn – THCS, chương trình Ngữ văn 7 có thêm được một tiết dạy chương trình địa phương : “Rèn luyện chính tả (Viết đúng âm đầu, âm chính, âm cuối)” (nhưng chúng tôi cũng chưa thấy phần thiết kế nội dung bài dạy của Sở gửi về). Nhìn chung, ta thấy ở cấp THCS có quan tâm đến việc chữa lỗi dùng từ, đặt câu, chính tả của học sinh phổ thông. Độ sâu và độ khắc còn tùy thuộc vào sự truyền tải của mỗi giáo viên dạy văn chúng ta. 3.3. Những bài viết về lỗi chính tả, ngữ pháp của học sinh dân tộc thiểu số Dường như ta chưa thấy một quyển sách nào viết về lỗi sử dụng tiếng Việt của học sinh dân tộc thiểu số. Trên tạp chí, chuyên san, Internet chỉ có rải rác một vài bài viết về lỗi dùng từ, dùng câu của học sinh dân tộc ở các tỉnh miền ngoài. Nhất là chưa có một bài nghiên cứu khoa học nào đề cập đến lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu của học sinh dân tộc Khmer. Theo những tư liệu ở thư viện của nhà trường, trên Internet, chúng tôi chỉ thấy một vài quyển sách mang tính phục vụ cho tiếng Khmer như, Ngữ pháp tiếng Khmer, NXB Văn hoá dân tộc của Lâm Sai, Thạch Xa Rắt, Sô Phin (1998), Tiếng Khmer (ngữ âm – từ vựng – ngữ pháp), NXB Khoa học xã hội của Thái Văn Chải (1997), Từ điển tiếng Việt cho học sinh dân tộc, NXB Giáo dục Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2001). Tóm lại, việc nghiên cứu lỗi hành văn ở các bình diện, các cấp độ lại chưa có một bề dày đáng kể. Chủ yếu chỉ có một số bài viết ngắn về lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp đăng rải rác trên các tạp chí, báo chí, sách giáo khoa. Điểm qua các bài viết, ta thấy các tác giả đã có những đóng góp đáng trân trọng trong việc tiếp cận, nghiên cứu các lỗi về chính tả, từ ngữ, ngữ pháp Nhưng các nhà ngôn ngữ học chưa nghiên cứu các lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp đối với đối tượng học sinh dân tộc thiểu số khi học tiếng Việt. Bởi vì hiện nay, đối tượng này cũng chiếm một phần không nhỏ trong các trường phổ thông. Và học sinh dân tộc thiểu số đến với tiếng Việt lại mắc các lỗi chính tả dùng từ đặt câu mang tính trầm trọng hơn. II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Hiện nay, tình trạng học sinh các cấp viết sai lỗi chính tả, ngữ pháp đang lên đến mức báo động. Thực trạng này không chỉ xảy ra ở học sinh các cấp dưới mà thậm chí ngay cả sinh viên bậc đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp cũng mắc phải. Đó là do học sinh chưa thích học, chưa thích đọc sách báo lại thiếu ý thức rèn luyện ngôn ngữ tiếng Việt nâng cao kiến thức. Và khả năng vận dụng ngôn từ của các em còn yếu kém, mắc nhiều lỗi về chữ và nghĩa của câu. Có học sinh khi kiểm tra đã quen ỉ lại vào sách học tốt mà học thuộc lòng và chép y nguyên lời giải vào bài kiểm tra nên không phát huy được tính tích cực của mình. Khi tự viết một bài làm văn thì học sinh lại mắc nhiều lỗi về chính tả, ngữ pháp. Và cũng do sự chủ quan, lơ là việc rèn luyện kỹ năng viết chính tả của một số thầy cô đã không dành thời gian để sửa lỗi chính tả, ngữ pháp cho học sinh. Lúc chấm bài kiểm tra, thầy cô chỉ ghi lời phê chung chung như : Bài viết sơ sài, câu văn lủng củng, nên khi học sinh xem bài thì không biết mình mắc những lỗi cụ thể nào. Bên cạnh đó, nhiều thầy cô dạy các bộ môn Toán, Lý, Hóa, Sinh, Sử, Địa lại không quan tâm sửa lỗi chính tả, ngữ pháp cho học sinh. Vì họ cho rằng đây là trách nhiệm của giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn. Thậm chí có thầy cô khi chấm bài chỉ các con điểm 9, điểm 10 chứ không có một lời nhận xét, đánh giá và góp ý. Phương pháp dạy học phân môn Tiếng Việt trong tích hợp Ngữ văn cho học sinh THPT đã được đề cập trong nhà trường. Tuy vậy, phương pháp này vẫn chưa được ứng dụng có hệ thống trong chương trình Ngữ văn. Nhất là chưa có một chương trình ứng dụng cụ thể, đặc thù
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_khac_phuc_loi_chinh_ta_ngu_phap_cho_ho.pdf