Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh nhận biết, phân biệt các hình thức văn nghị luận
Tích hợp là quan điểm cơ bản của việc đổi mới nội dung chương trình SGK và đổi mới phương pháp dạy học trong bé môn Ngữ văn của nhiều năm nay. Trong chương trình SGK Ngữ văn THCS, các tác giả biên soạn đã thể hiện rất rõ quan điểm tích hợp này ở mọi hình thức: tích hợp ngang giữa các phân môn, tích hợp dọc, tích hợp đồng tâm Sự đổi mới này không chỉ giúp học sinh có được kiến thức tổng hợp mà còn có kỹ năng tốt hơn trong quá trình học và làm văn. Một trong những nhiệm vụ cơ bản của môn Ngữ văn ở trường phổ thông nãi chung và ở trường THCS nói chung là phải giúp học sinh hình thành bốn kỹ năng cơ bản là: Nghe, nói, đọc, viết; trong đó kỹ năng viết có một vai trò vô cùng quan trọng.
Nhiệm vụ hình thành kỹ năng viết chính là ở phân môn Tập làm văn, chính vì vậy chỉ riêng ở phần tập làm văn ở lớp 9, bên cạnh việc hướng dẫn các em viết những văn bản hành chính thông dụng như: Biên bản, Hợp đồng, Thư (điện) chúc mừng và thăm hỏi, sẽ đi sâu hơn vào ba kiểu văn bản Thuyết minh, Tự sự, Nghị luận, giúp các em biết sử dụng một số biện pháp nghệ thuật và yếu tố miêu tả trong văn bản thuyết minh, yếu tố miêu tả và nghị luận, đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự, phép phân tích và tổng hợp trong văn bản nghị luận. Về văn bản nghị luận, các em sẽ được tìm hiểu sâu hơn về hai hình thức thường gặp nhất là nghị luận xã hội, một hình thức trước đây chưa được chỉ ý đúng mức trong nhà trường và nghị luận văn học với hai dạng cơ thể là nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) và nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. Nhưng trong thực tế có thể khẳng định rằng thể loại văn nghị luận là một thể loại văn khá khó đối với học sinh THCS. Qua quá trình giảng dạy tôi nhận thấy rằng một bộ phận lớn học sinh chưa thực sự có kỹ năng xác định luận điểm, luận cứ; chưa xác định và phân biệt được các yêu cầu khác nhau của các hình thức văn nghị luận.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh nhận biết, phân biệt các hình thức văn nghị luận

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH NHẬN BIẾT, PHÂN BIỆT CÁC HÌNH THỨC VĂN NGHỊ LUẬN A. Đặt vấn đề. I. Lời nói đầu. Tích hợp là quan điểm cơ bản của việc đổi mới nội dung chương trình SGK và đổi mới phương pháp dạy học trong bé môn Ngữ văn của nhiều năm nay. Trong chương trình SGK Ngữ văn THCS, các tác giả biên soạn đã thể hiện rất rõ quan điểm tích hợp này ở mọi hình thức: tích hợp ngang giữa các phân môn, tích hợp dọc, tích hợp đồng tâm Sự đổi mới này không chỉ giúp học sinh có được kiến thức tổng hợp mà còn có kỹ năng tốt hơn trong quá trình học và làm văn. Một trong những nhiệm vụ cơ bản của môn Ngữ văn ở trường phổ thông nãichung và ở trường THCS nói chung là phải giúp học sinh hình thành bốn kỹ năng cơ bản là: Nghe, nói, đọc, viết; trong đó kỹ năng viết có một vai trò vô cùng quan trọng. Nhiệm vụ hình thành kỹ năng viết chính là ở phân môn Tập làm văn, chính vì vậy chỉ riêng ở phần tập làm văn ở lớp 9, bên cạnh việc hướng dẫn các em viết những văn bản hành chính thông dụng như: Biên bản, Hợp đồng, Thư (điện) chúc mừng và thăm hỏi, sẽ đi sâu hơn vào ba kiểu văn bản Thuyết minh, Tự sự, Nghị luận, giúp các em biết sử dụng một số biện pháp nghệ thuật và yếu tố miêu tả trong văn bản thuyết minh, yếu tố miêu tả và nghị luận, đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự, phép phân tích và tổng hợp trong văn bản nghị luận. Về văn bản nghị luận, các em sẽ được tìm hiểu sâu hơn về hai hình thức thường gặp nhất là nghị luận xã hội, một hình thức trước đây chưa được chỉ ý đúng mức trong nhà trường và nghị luận văn học với hai dạng cơ thể là nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) và nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. Nhưng trong thực tế có thể khẳng định rằng thể loại văn nghị luận là một thể loại văn khá khó đối với học sinh THCS. Qua quá trình giảng dạy tôi nhận thấy rằng một bộ phận lớn học sinh chưa thực sự có kỹ năng xác định luận điểm, luận cứ; chưa xác định và phân biệt được các yêu cầu khác nhau của các hình thức văn nghị luận. II.Thực trạng của vấn đề nghiên cứu. 1.Thực trạng. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bé môn Ngữ văn ở trường THCS , tôi nhân thấy khi giảng dạy phân môn Tập làm văn và cụ thể là kiểu bài văn nghị luận đang tồn tại những vấn đề sau: - Một bộ phận không nhỏ giáo viên vẫn quan niệm phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn nghị luận nói chung là một kiểu bài khó. Vì vậy khi giảng dạy chưa thật sự được chú trọng, thời lượng dành cho thực hành của phân môn này chưa thật sự được sử dụng có hiệu quả. Mỗi hình thức nghị luận đều có một tiết giành cho luyện nói, nhưng trên thực tế thì giờ luyện nói này chưa thật sự được sô dụng đúng với mục đích của giờ luyện nói. - Trong khi giảng dạy giáo viên chỉ chú ý đến nội dung bài học, miễn sao cung cấp đầy đủ cho học sinh dung lượng kiến thức trong sách giáo khoa mà ít chú trọng đến việc giúp các em hình thành kỹ năng nhận biết, phân biệt các hình thức nghị luận để qua đó các em có thể xác định ngay được nội dung yêu cầu của từng hình thức nghị luận để áp dụng vào bài văn nghị luận của mình. - Thực tế thì hiện nay ở trong nhà trường nói chung và riêng ở cấp THCS nói riêng vẫn còn một bộ phận lớn học sinh có thói quen thụ động, quen nghe, chép lại những gì giáo viên nói. Khi làm bài thì phụ thuộc hoàn toàn vào các tài liệu học tốt, bài văn mẫu lúc nào cũng có sẵn trên thị trường mà hàn toàn không có thói quen suy nghĩ khám phá và tự bộc lộ bản thân. 2.Kết quả của thực trạng trên. Từ những thực trạng như trên sẽ dẫn đến kết quả tất yếu là các em dần phụ thuộc hoàn toàn vào những tài liệu có sẵn, không chú trọng hoặc không còn hứng thú với môn học. Các em không còn khả năng nhận biết, phân biệt các hình thức nghị luận. Chính vì vậy mà các em sẽ không nắm được yêu cầu riêng, cụ thể của từng hình thức nghị luận, bài nghị luận của các em sẽ không có lập luận chặt chẽ, lô gích, thiếu tính thuyết phục. Qua khảo sát chất lượng ở hai lớp 9C, 9D tôi trực tiếp giảng dạy thông qua các bài viết, kết quả thu được là: Lớp Sĩ số Kết quả đạt được Gỏi % Khá % TB % Yếu % Kém % 9C 38 1 2,6% 5 13,2% 24 63,2% 8 21% 0 0% 9D 40 1 2,5% 6 15% 24 60% 9 22,5% 0 0% Từ kết quả nh trên, bằng kinh nghiệm giảng dạy thực tế của bản thân tôi đưa ra một vài biện pháp nho nhỏ để nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy và học các hình thức văn nghị luận ở trường THCS. B.Giải quyết vấn đề I. Các giải pháp thực hiện. 1.Nghị luận là gì? Nghị luận nghĩa bàn và nhận định, đánh giá về một tình hình, một vấn đề nào đó(Từ điển Tiếng Việt). 2. Phân loại: Có hai loại Nghị Luận: + Nghị luận chính tri, xã hội. + Nghị luận văn chương. Nghị luận về một sự việc hiện tượng trong đời sống xã hội là nghị luận chính trị, xã hội. Ví dụ: Bàn luận về " Không có gì quý hơn độc lập tự do" là nghị luận chính trị. Nghị luận về thói đố kị, lòng khoan dung, lòng nhân ái, tƯ tham nhũng... là nghị luận xã hội. Nghị luận tục ngữ là nghị luận xã hội, nh :"Uống nước nhớ nguồn"; "Tốt danh hơn lành áo", " Có công mài sắt có ngày nên kim", v.v.. 3.Thế nào gọi là văn nghị luận? Nghị luận là kiểu bài, là phương pháp nghị luận sử dụng thao tác bàn bac, phân tích giúp người đọc, người nghe hiểu đúng, hiểu sâu, hiểu rộng một vấn đề, chỉ rõ vấn đề ấy là đúng hay là sai, tốt hay xấu, cũ hay mới...đồng thời giúp người nghe, người đọc có thái độ đúng, hành động đúng đối với vấn đề đang nghị luận. Chính vì vậy, một bài nghị luận phải đạt được ba mục tiêu cụ thể nh sau: - Một là, Phân biệt rõ đúng, sai, tốt, xấu, cũ mới... của vấn đề. - Hai là, mở rộng, khơi sâu tầm nhận thức, sự hiểu biết về vấn đề đó. - Ba là, xác định rõ thái độ, tình cảm, hành động đúng đắn khi đối diện với vấn đề ấy. 4. Các thao tác nghị luận. Một bài nghị luận phải nâng vấn đề có ý nghĩa khái quát, có giá trị lý luận và thực tiễn trên cơ sở một quan điểm, một lập trường nhất định. Để đạt được ba mục tiêu của bài nghị luận, người viết phải sử dụng thao tác nghị luận kết hợp với thao tác giải thích và thao tác chứng minh. Muốn phân biệt vấn đề đúng hay sai, tốt hay xấu, cũ hay mới, ta phải giải thích, phải trả lời thoả đáng các câu hỏi: Nghĩa là gì? nh thế nào? tại sao? Vì sao? Muốn mở rộng, khơi sâu tầm nhận thức, sự hiểu biết về vấn đề đó ta phải bàn luận, so sánh, đối chiếu lý luận với thực tế, nghĩa là ta phải bb×nh, phải luận kết hợp với chứng minh. Việc kết hợp thao tác, thao tác chứng minh với thao tác bình và luận trong một bài văn nghị luận mang tính tất yếu. Vì thế, một bài nghị luận nếu viết nông cạn chẳng khác gì một bài văn giải thích được thêm thắt một vài dẫn chứng. 5.Ba bước của một bài văn nghị luận. Trong thân bài của bài nghị luận , cần lần lượt phát triển theo ba bước nh sau: - Bước một, phải giải thích rõ vấn đề. Một từ ngữ khó, một khái niệm mới cần được giải thích rõ. Nghĩa đen, nghĩa bóng, ý nghĩa của vấn đề phải được giải thích cụ thể. Bước một giải thích này được coi nh soi sáng vấn đề là bước rất cần thiết. - Bước hai, phải bình để chỉ rõ đúng sai, tốt xấu, cũ mới, của vấn đề. Tại sao đúng(sai)? Đúng sai nh thế nào? Phải có lý lÊ trên một quan điểm lập trường nhất định. Phần bình thể hiện rõ cái yêu, cái ghét, sự tiến bộ hay lạc hậu, hạn chế về mặt nhận thức, về tư tưởng, tình cảm của người bình luận. Phần bình cần sự sắc sảo. - Bước ba, phải luận, nghĩa là phải bàn bạc, bàn luận, so sánh, đối chiếu khơi sâu, mở rộng vấn đề; đặt vấn đề trong nhiều mối tương quan về gia đình, xã hội, lịch sử, về lý luận, về thực tiễn để bàn luận cho thoả đáng. Bước ba của một bài văn nghị luận chính là nơi để phân biệt mức độ, chất lượng của trình độ của bài văn, của người viết. *Chú ý: Ba bước của một bài nghị luận cần rạch ròi trong nhận thức. Những bài nghị luận một câu tục ngữ, mét câu ca dao, một ý kiến ngắn... thường thường ở thân bài nên tiến hành theo trình tự ba bước. Đối với những vấn đề bình luận về một vấn được trích dẫn trong một câu dài có nhiều vỊ, ta phải: - Có lúc gộp bước 2 và 3, kết hợp nghị luận trong từng vỊ. - Có lúc phải gộp cả ba bước trong từng vỊ cụ thể. - Đọc các bài văn minh hoạ sẽ thấy rõ sự sáng tạo trong văn nghị luận phản ánh trí tuệ và độ thông minh, nhạy cảm của người học sinh. 6.Dàn ý một bài văn nghị luận. a,Mở bài: Cần có hai nhân tố sau, gắn liền với nhau, hô ứng nhau: dẫn, nhập. - Dẫn: là dẫn dắt hướng về luận đề. Cần đúng hướng chưa vội nêu bật ý nghĩa của vấn đề. Có nhiều cách dẫn dắt nh nêu xuất xứ của vấn đề, hoặc nêu hoàn cảnh( xã hội, lịch sử, nghệ thuật, học thuật... ) của vấn đề xuất, hiện, nảy sinh. Cũng có thể nêu mục đích của vấn đề phải nghị luận. Cũng có trường hợp sử dụng cách so sánh, nghi vấn hoặc tương phản, ...nói chung là cần biến hoá linh hoạt. - Nhập: là nhập đề. Dẫn với gắn liền với nhập nh hình với bóng. Nhập tức là nêu vấn đề phải bình luận. Nếu danh ngôn, câu văn, câu thơ, ca dao, tục ngữ... được chỉ định trong đề bài, thì ta phải giới thiệu trích dẫn và đặt trong dấu ngoặc kép. - Mở bài bài văn nghị luận cần thể hiện một phong độ và sư sâu sắc. b,Thân bài: Có ba bước sau. - Bước 1: Phải giải thích vấn đề. Giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng, rót ra ý nghĩa của vấn đề. Tục ngữ, ca dao thì phải giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng. Câu văn, câu danh ngôn, câu thơ (Đặc biệt là thơ cổ)... thì ta phải giải thích từ khó, khái niệm, để từ đó tìm ra hàm nghĩa, nội dung ý nghĩa. Không thể đơn giản bước 1, nỊu là nghị luận ca dao, tục ngữ, thơ văn cổ. - Bước 2: là bình. Nghĩa là phải khẳng định vấn đề đúng hay sai. Dùng lý lẽ để phân tích đúng sai của vấn dÒ. Chỉ ra được nguyên nhân: Tai sao đúng? Vì sao sai? Đúng sai nh thế nào? NÕu thiếu lý lÊ hoặc lý lÊ nông cạn, nếu thiếu kiến thức hoặc hiểu biết lờ mờ, thì làm sao mà bình, mà khen mà chê được. Có lúc người viết phải sử dụng một vài dẫn chứng để
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_nhan_biet_phan_biet_cac.pdf