Sáng kiến kinh nghiệm Cách chữa các lỗi chính tả thông thường

Quan niệm của Mĩ học truyền thống cho rằng cái hay bao giờ cũng được nảy sinh và tồn tại trên cơ sở của cái đúng. Nó phải lấy cái đúng làm điểm xuất phát và là sự thể hiện ở cấp độ cao của chuẩn mực ngôn ngữ. Các môn khoa học nói chung đều phải đạt tới sự chính xác tuyệt đối của các tri thức. Riêng đối với lĩnh vực văn học, ngoài chuẩn mực về cái đúng còn phải vươn tới chuẩn mực của cái hay. Cái hay tạo nên sự khác biệt, dấu ấn của tác phẩm. Chất liệu để tạo nên cái hay của tác phẩm văn học chính là các hình tượng nghệ thuật được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ. Tài năng của nhà văn phải thể hiện trước hết ở năng lực sử dụng hệ thống ngôn ngữ sao cho có hiệu quả cao nhất. Đối với học sinh THCS, việc nhận thức về cái hay và cái đúng mới chỉ dừng lại ở mức độ thấp, sơ đẳng. Việc tiếp nhận và vận dụng các hình thức ngôn ngữ, các quy tắc chính tả còn hạn chế. Chính vì vậy các em thường mắc phải các lỗi chính tả trong quá trình học tập và trở thành một vấn đề cần phải quan tâm.

pdf 10 trang Huy Quân 29/03/2025 20
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Cách chữa các lỗi chính tả thông thường", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Cách chữa các lỗi chính tả thông thường

Sáng kiến kinh nghiệm Cách chữa các lỗi chính tả thông thường
 TRƯỜNG THCS TÂN HIỆP 
 TỔ: VĂN –SỬ- ĐỊA - GDCD 
 =========  ======= 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
ĐỀ TÀI: 
CÁCH CHỮA CÁC LỖI 
CHÍNH TẢ THÔNG THƯỜNG 
 Ngöôøi thöïc hieän : LÊ VĂN DANH 
Tân Phong, ngày 29 tháng 9 năm 2011 
 A. ĐẶT VẤN ĐỀ: 
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU: 
Quan niệm của Mĩ học truyền thống cho rằng cái hay bao giờ cũng được nảy sinh và 
tồn tại trên cơ sở của cái đúng. Nó phải lấy cái đúng làm điểm xuất phát và là sự thể hiện ở 
cấp độ cao của chuẩn mực ngôn ngữ. 
Các môn khoa học nói chung đều phải đạt tới sự chính xác tuyệt đối của các tri thức. 
Riêng đối với lĩnh vực văn học, ngoài chuẩn mực về cái đúng còn phải vươn tới chuẩn mực 
của cái hay. Cái hay tạo nên sự khác biệt, dấu ấn của tác phẩm. Chất liệu để tạo nên cái hay 
của tác phẩm văn học chính là các hình tượng nghệ thuật được xây dựng bằng chất liệu 
ngôn từ. Tài năng của nhà văn phải thể hiện trước hết ở năng lực sử dụng hệ thống ngôn 
ngữ sao cho có hiệu quả cao nhất. 
Đối với học sinh THCS, việc nhận thức về cái hay và cái đúng mới chỉ dừng lại ở 
mức độ thấp, sơ đẳng. Việc tiếp nhận và vận dụng các hình thức ngôn ngữ, các quy tắc 
chính tả còn hạn chế. Chính vì vậy các em thường mắc phải các lỗi chính tả trong quá trình 
học tập và trở thành một vấn đề cần phải quan tâm. 
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ: 
Thực tế của quá trình dạy học ở trường THCS cho thấy, các em học sinh, kể các em 
học sinh khối lớp 9, vẫn chưa thực sự nắm được các quy tắc về chính tả, vẫn mắc phải 
nhiều lỗi chính tả trong các bài kiểm tra của mình, kể cả những lỗi hết sức thông thường, 
giản đơn. 
Việc mắc các lỗi chính tả này là do thói quen sử dụng ngôn ngữ của học sinh nhưng nó 
làm cho nội dung diễn đạt không được trọn vẹn. Đôi khi nó còn gây hiểu nhầm cho người 
đọc và gây cảm giác khó chịu, mệt mỏi cho người chấm bài Từ đó làm ảnh hưởng tới kết 
quả học tập nói chung của người học. 
Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này có thể lí giải bằng những cách khác nhau nhưng 
nguyên nhân cơ bản nhất vẫn là do ý thức sử dụng ngôn ngữ của người học. 
Trong quá trình học tập, học sinh dễ tiếp xúc với nhiều phương ngữ khác nhau do đặc 
điểm phức tạp của tình hình dân cư. Từ đó tạo cho các em nhiều thói quen ngôn ngữ không 
tốt. 
Các em ít phân biệt được sự khác nhau giữa ngôn ngữ của đời sống hằng ngày với 
ngôn ngữ khoa học nên tuỳ tiện trong cách sử dụng. 
Cũng có thể lỗi này một phần do giáo viên. Một số giáo viên, đặc biệt là giáo viên tiểu 
học, ngay từ đầu đã không chú trọng đúng mức tới việc rèn luyện ngôn ngữ của học sinh, 
giáo viên nói và viết chưa đúng chuẩn làm cho học sinh bắt chước, học theo và trở thành 
một thuộc tính cố hữu trong tư duy của các em. 
Vì vậy khi đánh giá thực trạng của vấn đề, chúng ta phải trung thực và thẳng thắn nhìn 
nhận vấn đề để từ đó có thể tìm ra những giải pháp phù hợp, hiệu quả. 
 III. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐÃ ÁP DỤNG: 
Các giáo viên dạy Ngữ văn ở trường THCS, trong quá trình dạy học và kiểm tra của 
mình, ngoài việc cung cấp nội dung kiến thức cho người học còn phải luôn luôn chú ý tới 
việc chữa các lỗi chính tả cho học sinh bằng các hình thức khác nhau. 
Những người biên soạn sách giáo khoa đã phân bố tương đối hợp lí ( kể cả giảm tải 
chương trình ) các tiết chương trình địa phương, các tiết luyện nói, luyện viết ,chữa chính tả 
cho học sinh. 
Dựa vào sự phân bố của nội dung chương trình, các giáo viên đã tổ chức cho các em 
luyện tập theo các mẫu đã cho; cũng có khi các em tự ghi chép, tự sửa các lỗi chính tả mắc 
phải trong bài làm của mình. Có người kì công hơn cho học sinh lập cuốn sổ tay chính tả 
và có sự theo dõi, kiểm tra, đánh giá theo định kì. Cách thường gặp nhất là giáo viên chỉ và 
sửa lỗi cho học sinh trong quá trình chấm các bài kiểm tra, bài viết của các em ( qua loa vài 
ba từ rồi bỏ ở đấy  ). 
Nhìn chung những cách làm trên đã phần nào giúp học sinh có ý thức viết đúng chính 
tả trong bài làm của mình. Nhưng thực tế công việc này làm mất rất nhiêù thời gian và còn 
mang tính nhất thời vì nó chỉ dừng lại ở một số học sinh. Các em lại quên và rồi lại tiếp tục 
mắc các lỗi chính tả khác trong những bài làm tiếp theo. 
Từ những vấn đề nêu trên và từ thực tế quá trình dạy học môn Ngữ văn ở trường 
THCS, tôi lựa chọn chuyên đề “Cách chữa các lỗi chính tả thông thường” làm đề tài 
nghiên cứu với mong muốn giúp các bạn đồng nghiệp có cách nhìn đúng về vấn đề này và 
có thêm ít kinh nghiệm để hướng dẫn học sinh khắc phục các lỗi chính tả thường gặp, tạo ra 
những tiến bộ mới trong việc học tập môn Ngữ văn của các em. 
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 
I. Cơ sở lí luận: 
Theo thuật ngữ của Ngôn ngữ học, “Chính tả là sự chuẩn hoá hình thức chữ viết của 
một ngôn ngữ bao gồm hệ thống các quy tắc về âm vị, âm tiết, dùng dấu câu, viết hoa” 
Vấn đề chuẩn chính tả Tiếng Việt được nhiều người quan tâm nghiên cứu và tìm hiểu, 
từ đó có rất nhiều công trình nghiên cứu được công bố. Có thể kể đến công trình của các 
nhà Ngôn ngữ học Đoàn Thiện Thuật, Mai Ngọc Chừ, Đặng Thị Lanh, Hoàn Châu Đặc 
biệt là cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” của tác giả Đỗ Hữu Châu. Các sách “Tiếng Việt thực 
hành” của các Trường Đại học và Cao đẳng sư phạm cũng rất quan tâm tới vấn đề rèn 
luyện chính tả cho học sinh. Sách Ngữ văn, sách giáo viên và sách thiết kế Ngữ văn 6, 7, 8, 
9 cũng đề cập tới vấn đề này. 
Các công trình nghiên cứu nói trên đều thống nhất về đặc điểm của chuẩn chính tả là 
tính bắt buộc và tính ổn định. 
Tuy nhiên, nếu nhìn nhận một cách khách quan thì những công trình này vẫn chưa đi 
vào trọng tâm vấn đề và chưa thống nhất được ý kiến về cách chữa lỗi, mỗi người đưa ra 
một quan niệm riêng dựa trên những cơ sở khác nhau. Việc đó gây ra cho người học và 
người dạy không ít khó khăn. 
 Vận dụng những nội dung nghiên cứu trong các công trình nói trên và quá trình tích 
luỹ của bản thân, tôi xin được trình bày một số nội dung cụ thể như sau: 
II. NỘI DUNG VẤN ĐỀ: 
Các lỗi chính tả mà học sinh mắc phải trong quá trình học tập của mình khá nhiều, tuy 
nhiên có thể quy làm ba nhóm lỗi chủ yếu sau: 
1. Các lỗi về dấu thanh: 
Lỗi này chủ yếu là lẫn lộn giữa dấu hỏi(?) và dấu ngã(~), đặc biệt phổ biến ở vùng 
nông thôn Nam Bộ ( Cà Mau – Bạc Liêu ). 
Để chữa lỗi này, ta có thể dùng một số mẹo sau: 
a. Mẹo tương ứng thanh điệu trong từ láy. 
Đặc điểm nổi bật của từ láy tiếng Việt là luôn có sự tương ứng về thanh điệu. Các 
thanh điệu trong từ láy tiếng Việt bao giờ cũng cùng một nhóm. Người ta chia nhóm thanh 
điệu trong từ láy tiếng Việt như sau: 
Nhóm: huyền, ngã, nặng. 
Nhóm: sắc, hỏi, không. 
Có thể dễ dàng nhớ mẹo này như sau: 
“Chị huyền mang nặng ngã đau 
Hỏi không sắc thuốc lấy đâu mà lành” 
Theo mẹo này, khi gặp một tiếng, ta còn lưỡng lự không biết dấu gì thì ta thử tìm từ 
láy tương ứng với nó. 
+ Nếu tiếng kia có dấu huyền hoặc nặng thì nó mang dấu ngã. 
Ví dụ: nũng nịu, rộng rãi, lộng lẫy. 
+ Nếu tiếng kia có dấu không hoặc sắc thì nó mang dấu hỏi. 
Ví dụ: ngớ ngẩn, vớ vẩn, sáng sủa, nhỏ nhen 
b. Mẹo theo tiếng gốc cùng hay gần nghĩa: 
Các tiếng gốc cùng hay gần nghĩa với nhau sẽ mang dấu cùng nhóm với nhau. 
Ví dụ: cũng- cùng; dẫu-dầu; mõm-mòm.. 
c. Mẹo “ mình nên nhớ viết là dấu ngã” 
Đối với các từ Hán Việt, trong trường hợp phân vân nên viết dấu hỏi hay ngã ta làm 
như sau: 
+ Nếu tiếng đó bắt đầu bằng một trong những âm trong câu trên đây như : m, n, l, d, 
ng, nh thì được viết dấu ngã. 
+ Các trường hợp còn lại thì viết với dấu hỏi. 
Ví dụ: 
 Với m: mãn cảm, mãnh liệt, mỹ lệ 
Với n: nữ nhi, nỗ lực, noãn bào 
Vói nh: nhẫn nại, nhãn quan, tham nhũng 
Với v: uy vũ, vĩ đại, vãng lai, viễn thị 
Với l: lữ khách, lễ độ, thành luỹ 
Với d: dũng mãnh, hoang dã, kiều diễm 
Với ng: bản ngã, ngoại ngữ, ngưỡng mộ 
Một số trường hợp ngoại lệ: không được viết phụ âm đầu là một trong bảy phụ âm 
nói trên nhưng vẫn được viết là dấu ngã như: phẫu thuật, linh cữu, tống tiễn, hoả tiễn, kĩ 
năng, bãi khoá, ấu trĩ, huyễn tưởng, hữu dụng, công quỹ, hỗn chiến, thực tiễn 
2. Các lỗi về vần: 
a. Lỗi lẫn lộn iêu-iu-ưu: 
Chúng ta còn nhớ: vần iu chỉ xuất hiện trong một số từ ngữ như: líu lưỡi, bĩu môi, địu 
gạo, ỉu xìu, chịu chơi, chịu đựng 
Ngoài ra, nó chỉ xuất hiện trong từ láy âm như: phụng phịu, đìu hiu, hắt hiu, dịu 
dàng 
Đối với các từ Hán Việt thì bao giờ cũng có thể viết ưu hay iêu. 
Ví dụ: trìu tượng, bưu điện, hưu trí, lưu lạc, hiếu chiến, diễu hành, hiệu trưởng, quan 
liêu 
b. Lỗi lẫn lộn iêu-ươu- ưu: 
Người miền Bắc hay lẫn lộn ươu và iêu. 
Người miền Nam hay lẫn lộn ươu với ưu. 
Để khắc phục lỗi này cần nhớ: 
+ Vần ươu chỉ xuất hiện hạn chế trong các từ như: cái bướu, con hươu, chai rượu, 
con khướu. 
+ Các từ Hán Việt không viết với vần ươu. 
3. Các lỗi về phụ âm đầu: 
a. Lẫn lộn L và N: 
Lỗi này phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ, ta có thể khắc phục lỗi này bằng cách sau: 
a.1. Mẹo láy âm: 
Khi ở vị trí thứ nhất trong một từ láy âm, L có thể láy với các âm đầu khác còn N thì 
không có khả năng này. 
Nếu gặp một tiếng mà ta còn phân vân thì ta hãy tạo một từ láy âm, nếu tiếng đó có 
thể đứng trước thì viết là L. 
 Ví dụ: lắp bắp, lốm đốm, lờ đờ, lúi húi, loay hoay, la cà, lục cục, lò dò, liu điu 
Khi tiếng đó đứng ở vị trí thứ hai, ta lại có quy tắc khác.. 
N láy âm với Gi và âm đầu Z còn L láy với các âm khác . 
Ví dụ: Lông bông, lảng bảng, chói lọi. 
Giẫy nẩy, gian nan, áy náy. 
a.2. Mẹo âm đệm: 
L có thể đứng trước âm đệm (O,U) còn N thì không thể. 
a.3 Mẹo đồng nghĩa: 
Khi nó đồng nghĩa với một tiếng khác viết với âm Nh thì được viết là L. 
Ví dụ: lài- nhài, lầm –nhầm, lanh- nhanh. 
b. Lẫn lộn Tr và Ch: 
Lỗi này phổ biến ở vùng Đồng bằng Sông Cữu Long có cả Bạc Liêu. 
Ta chữa lỗi này bằng các cách sau: 
b.1 Mẹo láy âm: 
Trong tiếng Việt, Ch láy âm với các phụ âm khác trừ 4 ngoại lệ: trọc lóc, trụi lũi, trót 
lọt, trẹt lét. 
Như vậy, nếu gặp một tiếng mà ta còn phân vân giữa Tr và Ch mà có thể láy âm với 
các phụ âm khác thì đó là Ch. 
Ví dụ: chơi bời, cheo leo, chểnh mảng, lanh chanh, lổm chổm 
b.2. Mẹo tha

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_cach_chua_cac_loi_chinh_ta_thong_thuon.pdf