SKKN Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học phần lịch sử Việt Nam môn Lịch sử 9 ở trường THCS Bắc Sơn

Đối với học sinh lớp 9 phần nhiều các em đều có khả năng tự học, do đó

người giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể, vừa sức với các em. Nếu hoàn thành tốt

nhiệm vụ thì đó chính là điều kiện để tư duy của các em phát triển.

Trong hoạt động dạy học, việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh là rất quan

trọng do đó giáo viên cần yêu cầu và hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà bằng

cách soạn bài trước khi học bài mới. Cách chuẩn bị bài thông thường là giáo viên

yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa và ghi vào vở. Mặt khác

giáo viên cũng có thể giao các bài tập theo từng bài học hay theo chương để học

sinh chuẩn bị.

Trong dạy học lịch sử có dạng yêu cầu lập niên biểu sự kiện lịch sử, do đó

giáo viên phải hướng dẫn học sinh lập đề cương chi tiết những diễn biến hay sự

kiện lịch sử đã học, từ đó học sinh về nhà tìm hiểu qua sách giáo khoa tự sàng lọc

những nội dung chính cần nhớ và tự mình lập một đề cương chi tiết để củng cố4

khắc sâu kiến thức đã hoc. Muốn lập được bảng thống kê trên đòi hỏi học sinh

phải tự đọc sách lắng nghe bài học trên lớp từ đó rèn luyện cho các em thói quen

học tập ở nhà thông qua sách giáo khoa.

pdf 16 trang Thảo Ly 17/08/2023 5540
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học phần lịch sử Việt Nam môn Lịch sử 9 ở trường THCS Bắc Sơn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học phần lịch sử Việt Nam môn Lịch sử 9 ở trường THCS Bắc Sơn

SKKN Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học phần lịch sử Việt Nam môn Lịch sử 9 ở trường THCS Bắc Sơn
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 
 Độc lập - Tự do - Hạnh phúc 
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN 
 Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến thị xã Phổ Yên. 
Số 
TT 
Họ và tên Ngày 
tháng 
năm sinh 
Nơi 
công tác 
Chức 
danh 
Trình 
độ 
chuyên 
môn 
Tỷ lệ (%) 
đóng góp 
vào việc 
tạo ra 
sáng kiến 
1 Nguyễn Hữu Hân 19/12/1980 Trường 
THCS 
Bắc Sơn 
Giáo 
viên 
 Đại học 
Văn – Sử 
 Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: Một số giải pháp nhằm phát 
huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học phần lịch sử Việt Nam 
môn Lịch sử 9 ở trường THCS Bắc Sơn 
I. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến 
Tác giả: Nguyễn Hữu Hân 
Đơn vị, địa chỉ: Trường THCS Bắc Sơn 
II. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 
Sáng kiến được áp dụng trong công tác giảng dạy môn Lịch sử 9 ở Trường 
THCS Bắc Sơn 
III. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử 
 Sáng kiến được áp dụng từ ngày 15/9/2019 
IV. Mô tả bản chất của sáng kiến 
1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn 
1.1. Cơ sở lí luận 
Giảng dạy lịch sử là một công việc không hề dễ dàng, rất dễ sa vào nêu các 
sự kiện một cách khô khan, nặng nề thiếu sinh động, bởi vậy đòi hỏi người giáo 
viên phải có phương pháp dạy học phù hợp với đặc trưng của bộ môn và đem đến 
sự hiệu quả. Việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh là một trong 
những khâu then chốt của quá trình dạy và học. Vì vậy, với vai trò chủ đạo, người 
giáo viên phải biết gây hứng thú học tập bộ môn, phải hướng học sinh thực hiện 
vai trò chủ động của mình, từ đó giúp cho học sinh gắn liền kiến thức với tri thức 
cuộc sống. Để phát triển tư duy của học sinh trong môn Lịch sử cần đòi hỏi người 
thầy phải có khả năng vận dụng thành thục phương pháp dạy học không để cho 
học sinh thụ động ghi chép kiến thức, nhớ máy móc mà không hiểu đúng về bản 
 2 
chất của sự kiện, nhân vật lịch sử. Có như vậy mới giúp cho học sinh nhớ được bài 
học lâu hơn và sẽ vận dụng được kiến thức vào trong thực tiễn cuộc sống. 
1.2. Cơ sở thực tiễn 
Trong môn Lịch sử có nhiều khái niệm và sự kiện học sinh phải hiểu và 
phải nhớ, tuy nhiên hiện nay còn hiện tượng học sinh học tập một cách thụ động, 
chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kĩ năng tư 
duy. Tâm lí của học sinh thường có xu hướng chưa thật sự coi trọng bộ môn Lịch 
sử nên chưa tập trung tìm hiểu nghiên cứu sâu về bài học mà chỉ dừng lại ở mức 
độ học thuộc kiến thức thầy, cô cung cấp. Do vậy học sinh sẽ không phát huy tối 
đa được khả năng tư duy sáng tạo của mình, chưa thực sự chủ động và tích cực 
trong học tập và cũng vì thế kết quả học tập đạt được cũng chưa thật cao. Vì 
những lí do trên mà tôi đã lựa chọn sáng kiến “Một số giải pháp nhằm phát huy 
tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học phần lịch sử Việt Nam môn 
Lịch sử 9 ở trường THCS Bắc Sơn để nghiên cứu và áp dụng. 
 2. Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh 
trong dạy học phần lịch sử Việt Nam môn Lịch sử 9 ở trường THCS Bắc Sơn 
Nhận biết tầm quan trọng của lịch sử đối với thế hệ trẻ là cần thiết cho nên 
để đạt kết quả cao trong dạy học lịch sử, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, tư 
duy sáng tạo cho học sinh, tôi đã nghiên cứu tìm ra và vận dụng một số giải pháp 
sau đây: 
2.1. Sử dụng sách giáo khoa để phát huy tính tích cực, chủ động của học 
sinh 
2.1.1. Sử dụng sách giáo khoa để chuẩn bị bài giảng: 
Trước khi soạn bài người giáo viên cần nghiên cứu nội dung toàn bài trong 
sách giáo khoa. Sau đó xác định kiến thức cơ bản của bài, hiểu rõ mục đích yêu 
cầu ở học sinh về mặt kiến thức, tư tưởng, kỹ năng. Khi đã có cái nhìn toàn diện 
khái quát, rồi mới đi sâu vào từng mục nhằm tìm ra kiến thức cơ bản của mục đó, 
sự liên quan của kiến thức đó đối với kiến thức cơ bản của toàn bài. 
Mỗi bài thường có từ 2 đến 3 đề mục nhỏ có liên quan chặt chẽ với nhau 
song không nên dàn đều về mặt thời gian cũng như khối lượng kiến thức của từng 
phần, mà chúng ta cần phải xác định phần nào là trọng tâm phần nào cần lướt qua. 
Ví dụ: Khi dạy Bài 18: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Ở bài học này có 
ba đơn vị kiến thức chính tương ứng với ba mục. 
Mục I: Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 
Mục II: Luận cương chính trị (10-1930) 
Mục III: Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng 
Trong ba mục trên, giáo viên cần xác định mục trọng tâm tập trung nhiều 
kiến thức của bài nhất là mục I để dành lượng thời gian nhiều hơn giúp học sinh 
tiếp thu lượng kiến thức từ bài học 
 3 
Như vậy chính sách giáo khoa đã làm điểm tựa để người giáo viên xác định 
kiến thức cơ bản, là sự gợi ý để lựa chọn phương pháp dạy học vừa phù hợp với 
đối tượng vừa phát huy tính tích cực hoạt động độc lập của học sinh. 
2.1.2. Sử dụng sách giáo khoa trong quá trình dạy học trên lớp 
Trong giờ học, học sinh thường theo dõi bài giảng của giáo viên rồi so sánh 
đối chiếu với sách giáo khoa, thậm chí có những em không thích ghi theo bài 
giảng của giáo viên mà lại ghi chép trong sách giáo khoa. Vì vậy bài giảng của 
giáo viên không nên lặp lại nhiều ngôn ngữ trong sách giáo khoa mà nên diễn đạt 
bằng ngôn ngữ của mình 
Ví dụ: Khi dạy Bài 25: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc 
chống thực dân Pháp (1946-1954). Khi dạy mục IV: Chiến dịch Việt Bắc thu đông 
năm 1947, giáo viên có thể vừa chỉ bản đồ vừa phân tích: 
- Sáng 7-10-1947, thực dân Pháp cho một cánh quân nhảy dù xuống Bắc 
Cạn, Chợ Mới, Chợ Đồn 
- Một cánh quân bộ từ Lạng Sơn lên Cao Bằng rồi từ Cao Bằng đánh xuống 
Bắc Kạn tạo thành gọng kìm bao vây phía đông và phía bắc căn cứ địa Việt Bắc. 
- Ngày 9-10-1947, một binh đoàn hỗn hợp lính bộ và lính thủy đánh bộ 
ngược sông Hồng, sông Lô và sông Gâm lên thị xã Tuyên Quang, Chiêm Hóa, 
Đài Thị (Tuyên Quang) bao vây phía tây căn cứ địa Việt Bắc. 
Trong sách giáo khoa phần lớn các bài đều có các đoạn tư liệu chữ in nhỏ, 
kiến thức ở đó rất quan trọng, là nguồn tư liệu mới làm nổi bật nội dung cơ bản 
của bài. Chính vì vậy giáo viên phải sử dụng triệt để. Nếu nó đề cập đến những 
vấn đề khó, phức tạp thì giáo viên miêu tả hoặc kể còn nếu dễ thì giáo viên có thể 
gọi học sinh đọc cho cả lớp nghe để các em hiểu về các sự kiện lịch sử trong đoạn 
tư liệu đó (Ví dụ: Phần chữ nhỏ ở mục IV – Bài 25: Chiến dịch Việt Bắc thu đông 
năm 1947, giáo viên cần kết hợp tường thuật và miêu tả ba cánh quân của thực dân 
Pháp đổ bộ xuống căn cứ Việt Bắc) 
2.1.3. Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa để học ở nhà 
Đối với học sinh lớp 9 phần nhiều các em đều có khả năng tự học, do đó 
người giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể, vừa sức với các em. Nếu hoàn thành tốt 
nhiệm vụ thì đó chính là điều kiện để tư duy của các em phát triển. 
Trong hoạt động dạy học, việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh là rất quan 
trọng do đó giáo viên cần yêu cầu và hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà bằng 
cách soạn bài trước khi học bài mới. Cách chuẩn bị bài thông thường là giáo viên 
yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa và ghi vào vở. Mặt khác 
giáo viên cũng có thể giao các bài tập theo từng bài học hay theo chương để học 
sinh chuẩn bị. 
Trong dạy học lịch sử có dạng yêu cầu lập niên biểu sự kiện lịch sử, do đó 
giáo viên phải hướng dẫn học sinh lập đề cương chi tiết những diễn biến hay sự 
kiện lịch sử đã học, từ đó học sinh về nhà tìm hiểu qua sách giáo khoa tự sàng lọc 
những nội dung chính cần nhớ và tự mình lập một đề cương chi tiết để củng cố 
 4 
khắc sâu kiến thức đã hoc. Muốn lập được bảng thống kê trên đòi hỏi học sinh 
phải tự đọc sách lắng nghe bài học trên lớp từ đó rèn luyện cho các em thói quen 
học tập ở nhà thông qua sách giáo khoa. 
Ví dụ 1: Lập bảng thống kê quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở 
nước ngoài từ năm 1919 – 1925 (Bài 16: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước 
ngoài trong những năm 1919-1925) theo mẫu sau: 
Thời gian Những hoạt động chính Ý nghĩa 
18-6-1919 Gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam 
lên hội nghị Véc-xai 
Việc làm đó có tiếng 
vang lớn đối với nhân 
dân Việt Nam, nhân 
dân Pháp và nhân dân 
các thuộc địa Pháp 
. 
. 
. 
Ví dụ 2: Lập bảng các niên đại và sự kiện về thắng lợi của quân dân ta ở 
miền Nam trong chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ (1961-
1965) 
Thời gian Những sự kiện lịch sử tiêu biểu 
Năm 1962 Quân giải phóng cùng với nhân dân đánh bại nhiều cuộc hành 
quân càn quét của quân đội Sài Gòn đánh vào chiến khu D, căn 
cứ U Minh, Tây Ninh 
. 
Muốn cho học sinh học tốt hoặc để nhận biết sự tiếp thu của học sinh như 
thế nào, người giáo viên ra câu hỏi cho học sinh về nhà làm (cả câu hỏi bài tập lẫn 
thực hành) Học sinh về nhà phải làm tất cả các bài tập mà giáo viên đưa ra bằng 
cách dựa trên bài học hoặc đi tìm từ các nguồn thông tin khác Muốn làm tốt 
khâu này, giáo viên phải thường xuyên đánh giá, cho điểm khuyến khích tuyên 
dương những học sinh tích cực, nhắc nhở những học sinh chưa tích cực làm bài 
tập có như thế mới nắm bắt được tinh thần và thái độ học tập của các em. 
- Dạng bài tập so sánh: So sánh phong trào cách mạng 1930 – 1931 với Phong 
trào cách mạng 1936 – 1939 về xác định kẻ thủ, mục tiêu đấu tranh, hình thức đấu 
tranh, lực lượng tham gia. 
- Dạng bài tập theo bài học: Lập niên biểu về thắng lợi của quân dân ta 
trong chiến đấu chống chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mĩ (Bài 29: Cả nước 
trực tiếp chiến đấu chống Mĩ cứu nước 1965 - 1973) theo mẫu sau: 
 5 
Thời gian Thắng lợi của quân dân ta Kết quả, ý nghĩa 
Ngày 18/8/1965 ChiÕn th¾ng V¹n T-êng 
(Qu¶ng Ng·i) 
* KÕt qu¶ : 
- DiÖt 900 tªn ®Þch. 
- B¾n ch¸y 22 xe t¨ng, xe 
bäc thÐp. 
- H¹ 13 m¸y bay. 
* ý nghÜa: Më ®Çu cao trµo 
diÖt MÜ. 
... ...  
- Dạng bài tập theo chương: Kể tóm tắt những chiến công lớn của những 
anh hùng dân tộc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-
1954) (Chương V) 
2.2. Sử dụng các câu hỏi để phát huy tính tích cực, chủ động của học 
sinh 
Sử dụng câu hỏi trong dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng là 
một trong nhữn ... ọc sinh vào tất cả các khâu của quá trình hoạt 
động: từ thiết kế hoạt động đến chuẩn bị, thực hiện và đánh giá kết quả hoạt động 
phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và khả năng của bản thân; tạo cơ hội cho các em 
được trải nghiệm, được bày tỏ quan điểm, ý tưởng; được đánh giá và lựa chọn ý 
tưởng hoạt động, được thể hiện, tự khẳng định bản thân, được tự đánh giá và đánh 
giá kết quả hoạt động của bản thân, của nhóm mình và của bạn bè Từ đó hình 
thành và phát triển cho các em những giá trị sống và các năng lực cần thiết. 
Ví dụ: Trước khi dạy phần Lịch sử địa phương: Bài 4 – Tiết 2: Thái Nguyên 
trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ (1945-1975), xây 
dựng và bảo vệ tổ quốc (từ 1975 đến nay), giáo viên có thể đề xuất với Ban Giám 
hiệu nhà trường, phối hợp với tổ chức Đội trong nhà trường tổ chức cho học sinh 
tham quan học tập khu di tích lịch sử ATK – Định Hóa. Đến nơi đây, học sinh sẽ 
trực tiếp quan sát, tìm hiểu về những địa danh lịch sử mà Bộ Chính trị, Bác Hồ 
từng họp và làm việc như đồi Khau Tý, lán Tỉn Keo, nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ 
Chí Minh tại Đèo De – Phú Đình và những địa danh khác. Từ đó giáo dục cho các 
em lòng tự hào dân tộc, tình cảm yêu quý, biết ơn lãnh tụ và ý thức giữ gìn, phát 
huy giá trị văn hóa của quê hương mình và của đất nước. 
 11 
BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT KHÓ KHĂN 
SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 
NGOẠI XÂM, 
NỘI PHẢN 
QUÂN SỰ, 
CHÍNH TRỊ 
TÀI CHÍNH VĂN HÓA 
TRƯỚC 6/3 
ĐÁNH 
PHÁP, 
HÒA 
TƯỞNG 
SAU 
6/3 
HÒA PHÁP, 
ĐUỔI 
TƯỞNG 
VẠCH 
TRẦN 
ÂM 
MƯU 
TRỪNG 
TRỊ 
THEO 
PHÁP 
LUẬT 
TỔNG TUYỂN CỬ 
BẦU QUỐC HỘI, 
THÀNH LẬP 
CHÍNH PHỦ HỢP 
PHÁP 
QUYÊN GÓP; 
TĂNG GIA SẢN 
XUẤT 
QUYÊN GÓP, 
CỦA DÂN; 
PHÁT HÀNH 
TIỀN 
 MỞ LỚP BÌNH DÂN 
 HỌC VỤ, 
 PHÁT TRIỂN 
GIÁO DỤC 
KINH TẾ 
KHÓ KHĂN THUẬN LỢI 
NGOẠI 
XÂM, 
NỘI 
PHẢN 
ĐE DỌA 
QUÂN 
SỰ, 
CHÍNH 
TRỊ 
NON 
TRẺ 
KINH 
TẾ LẠC 
HẬU, 
ĐÓI 
VĂN 
HÓA 
LẠC 
HẬU, 
MÙ 
CHỮ 
ĐẢNG 
LÃNH 
ĐẠO, 
DÂN 
ỦNG HỘ 
CÁCH 
MẠNG 
THẾ 
GIỚI 
PHÁT 
TRIỂN 
TÌNH HÌNH NƯỚC TA SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 
TÀI 
CHÍNH 
TRỐNG 
RỖNG 
2.6. Sử dụng sơ đồ để hệ thống kiến thức và củng cố bài học 
Ví dụ: Khi dạy Bài 24: Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân 
chủ nhân dân (1945-1946), giáo viên có thể sử dụng sơ đồ sau để khái quát lại nội 
dung của bài học. 
2.7. Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học 
Dạy học liên môn trong môn Lịch sử là hình thức liên kết những kiến thức 
giao thoa với môn Lịch sử như Ngữ văn, Địa lí, Tin học, Âm nhạc, Giáo dục công 
dân kết hợp giáo dục quốc phòng. Rèn luyện kĩ năng sống, giáo dục bảo vệ di sản 
 12 
văn hóa địa phương để học sinh tiếp thu kiến thức, biết vận dụng kiến thức lịch sử 
vào cuộc sống và ngược lại từ cuộc sống để giải quyết các vấn đề liên quan đến 
lịch sử. 
Trong chương trình phổ thông, giáo viên có thể sử dụng phương pháp tích 
hợp trong hầu hết các bài dạy, từ đó làm tăng hứng thú học tập cho học sinh. 
Ví dụ: Khi dạy Bài 23: Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành 
lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giáo viên có thể tích hợp kiến thức với các 
môn học: 
Môn Địa lí: Giới thiệu về địa danh Tân Trào – Sơn Dương – Tuyên Quang 
Môn Âm nhạc: Cho học nghe giai điệu bài hát Tiến quân ca của nhạc sĩ Văn 
Cao 
Môn Ngữ văn: giúp học sinh hiểu “Tuyên ngôn Độc lập” là áng văn lập 
quốc vĩ đại, là văn kiện có giá trị cao về tư tưởng, lí luận của Chủ tịch Hồ Chí 
Minh 
Môn Giáo dục công dân và giáo dục quốc phòng: giáo dục học sinh lòng 
biết ơn thế hệ đi trước, ý thức giữ vững chủ quyền và nền độc lập của dân tộc. 
2.8. Phương pháp đóng vai và kể chuyện về các nhân vật lịch sử 
2.8.1. Đóng vai các nhân vật lịch sử: 
Học sinh THCS ở độ tuổi thiếu niên, các em rất hiếu động, thích thú khi 
được vui chơi. Nếu giáo viên biết cách tổ chức các trò chơi thì có thể biến một số 
nội dung thành “học mà chơi, chơi mà học”, làm được điều này sẽ giúp các em 
yêu lịch sử hơn, hứng thú học tập hơn, có một số cách tổ chức trò chơi trong dạy 
học lịch sử như sau: 
Có rất nhiều câu chuyện lịch sử viết về các nhân vật lịch sử liên quan đến 
các sự kiện lịch sử lớn của dân tộc, liên quan đến nội dung bài học. Để giúp giờ 
học sinh động hơn, giáo viên có thể cho học sinh sưu tầm, chuẩn bị trước để khi 
thực hiện đạt hiệu quả cao nhất. 
Ví dụ: Khi dạy Bài 23: Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành 
lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giáo viên có thể dành khoảng thời gian từ 
5 đến 7 phút cho học sinh tham gia đóng vai nhân vật lịch sử. Cho học sinh sắm 
vai Bác Hồ, các vị tướng Chính phủ Lâm thời, nhân dân, đồng bào Việt Nam diễn 
tả lại không khí của buổi lễ Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945.. 
- Phân công 5-6 học sinh đứng trên bục giảng quay mặt về phía lớp. Trong 
đó có 1 bạn đóng Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. Yêu cầu đọc chậm rãi, 
hùng hồn:“Hỡi đồng bào cả nước, tất cả mọi người sinh ra đều có quyền tự do và 
bình đẳng...” 
- Một tốp 10-15 học sinh đứng quay mặt lên bục giảng, hướng về phía các 
bạn ở trên đóng làm nhân dân vui sướng, phấn khởi trong ngày độc lập của đất 
nước. 
 13 
 Sau khi tổ chức cho học sinh đóng vai nhân vật lịch sử xong, giáo viên đặt 
câu hỏi: Em có suy nghĩ như thế nào về sự kiện lịch sử này? Trên cơ sở học sinh 
trả lời, giáo viên khẳng định đây là sự kiện lịch sự trọng đại của dân tộc ta, đó là 
sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên mới của 
dân tộc – kỉ nguyên độc lập, tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội 
Qua phần đóng vai trên, học sinh sẽ nhập tâm, hứng thú với bài học hơn và 
ghi nhớ, khắc sâu kiến thức của bài học đồng thời rèn cho các em kĩ năng diễn 
xuất, chủ động, tích cực khi tham gia hoạt động học tập. 
2.8.2. Kể chuyện về các nhân vật lịch sử: 
Khi các bài học có liên quan đến diễn biến của một cuộc khởi nghĩa, một 
cuộc kháng chiến hay một chiến dịch, giáo viên có thể sử dụng lược đồ, xem một 
đoạn phim tư liệu, quan sát tranh ảnh kết hợp kể những câu chuyện có liên quan 
đến sự kiện đang trình bày. Điều này có tác dụng giúp học sinh nhớ tốt hơn diễn 
biến sau đó giáo viên đặt câu hỏi để học sinh nêu lên suy nghĩ, rút ra bài học cho 
bản thân hoặc giáo viên cũng có thể cho học sinh kể chuyện khi đã giao nhiệm vụ 
cho các em chuẩn bị trước. 
Khi dạy bài 27: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm 
lược kết thúc (1953-1954) khi dạy về chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, giáo viên 
có thể kể những câu chuyện về tấm gương hi sinh của anh hùng Tô Vĩnh Diện lấy 
thân mình chèn pháo; anh hùng Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai. 
Khi kể những câu chuyện, giáo viên đặt câu hỏi để học sinh phát biểu suy nghĩ của 
mình: Em có nhận xét và suy nghĩ gì về tấm gương hi sinh anh dũng của anh hùng 
Tô Vĩnh Diện và anh hùng Phan Đình Giót? Em sẽ làm gì để noi gương thế hệ các 
anh hùng của dân tộc ta? 
 Anh hùng Tô Vĩnh Diện Anh hùng Phan Đình Giót 
 lấy thân mình chèn pháo lấy thân mình lấp lỗ châu mai 
 14 
Qua đó học sinh sẽ thấy được những chiến công và sự hi sinh quên mình vì 
độc lập dân tộc của các anh đồng thời giúp các em tỏ lòng biết ơn thế hệ đi trước, 
từ đó xác định động cơ học tập, rèn luyện góp phần xây dựng đất nước. 
 V. Những thông tin cần được bảo mật 
 VI. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến 
 Giáo viên cần phải thường xuyên nghiên cứu, tự học, tự bồi dưỡng để nâng 
cao trình độ chuyên môn, tích cực đổi mới phương pháp dạy học: lực chọn các 
hình thức, nội dung và biện pháp tổ chức dạy học phù hợp, hiệu quả 
 Nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng đội tuyển học 
sinh giỏi đảm bảo tính kế cận và bền vững. 
 Tham mưu với nhà trường tổ chức các chuyên đề, các buổi sinh hoạt 
chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá. 
VII. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng 
sáng kiến theo ý kiến của tác giả 
Đối với giáo viên: Qua quá trình thử nghiệm sáng kiến, giáo viên được phát 
huy mọi khả năng của mình trong quá trình dạy học, kiến thức bộ môn được củng 
cố và nâng cao, giáo viên rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu cho bản thân. 
 Đối với học sinh: Các em được mở mang kiến thức, phát triển tư duy, phát 
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tạo niềm say mê hứng thú học tập bộ môn, 
không khí học tập sôi nổi, các em yêu thích môn học hơn và đạt được kết quả khá 
cao trong học tập. 
So sánh kết quả khảo sát đầu năm học và kết quả học kỳ I của năm học 
2019 – 2020 
1. Kết quả khảo sát đầu năm học 2019 – 2020 
Lớp 
Tổng 
số 
học 
sinh 
Chất lượng bộ môn 
Giỏi % Khá % Trung 
bình 
% Yếu % Kém % 
9B 39 3 7,7 7 18,0 24 61,5 5 12,8 0 
9C 40 4 10 9 22,5 21 52,5 6 15,0 0 
 2. Kết quả bộ môn của học kỳ I năm học 2019 – 2020 
 15 
Lớp 
Tổng 
số 
học 
sinh 
Chất lượng bộ môn 
Giỏi % Khá % Trung 
bình 
% Yếu % Kém % 
9B 39 6 15,4 12 30,7 20 51,3 1 2,6 0 
9C 40 7 17,5 14 35,0 19 47,5 0 0 
3. Kết quả học sinh giỏi 5 năm: 
STT Năm học Số lượng giải 
cấp Thị xã 
Số lượng giải 
cấp Tỉnh 
1 2015 - 2016 02 01 
2 2016 - 2017 01 01 
3 2017 - 2018 01 01 
4 2018 - 2019 01 0 
5 2019 - 2020 02 
VIII. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp 
dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng 
kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử 
IX. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng 
sáng kiến lần đầu 
Số 
TT 
Họ và 
tên 
Ngày 
tháng 
năm sinh 
Nơi công 
tác 
Chức 
danh 
Trình độ 
chuyên 
môn 
Nội dung công 
việc hỗ trợ 
1 Nguyễn 
Hữu 
Hân 
19/12/1980 Trường 
THCS Bắc 
Sơn 
Giáo 
viên 
Đại học Giảng dạy 
Lịch sử 9B,C 
 2 Nguyễn 
Thị 
Thu 
Trang 
01/8/1987 
Trường 
THCS Bắc 
Sơn 
Giáo 
viên 
Đại học Hỗ trợ điều tra 
khảo sát kết quả 
học tập của 
 học sinh 
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và 
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. 
 Bắc Sơn, ngày 22 tháng 5 năm 2020 
 NGƯỜI NỘP ĐƠN 
 Nguyễn Hữu Hân 
 16 

File đính kèm:

  • pdfskkn_mot_so_giai_phap_nham_phat_huy_tinh_tich_cuc_chu_dong_c.pdf
  • docSaNG_KIeN_KNg_H_Han_doc_fb5254ed33.doc