SKKN Mấy vấn đề về việc dạy học tác phẩm Vũ Như Tô và trích đoạn Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng
Khi dàn dựng vở kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, đạo diễn
Phạm Thị Thành nhận xét: Vũ Như Tô là một trong những vở kịch sâu sắc
và hoàn chỉnh nhất của Việt Nam. Nhà nghiên cứu văn học Phong Lê cho
rằng, kịch Vũ Như Tô có vóc dáng vạm vỡ của một tượng đài. Phạm Vĩnh
Cư sau khi đã dành nhiều tâm huyết để nghiên cứu vở kịch đã đánh giá: Vũ
Như Tô là tác phẩm bi kịch duy nhất và đích thực của Nguyễn Huy Tưởng.
Nó đáp ứng đầy đủ và khá hoàn hảo mọi yêu cầu, mọi tiêu chí của một thể
loại văn học mà mĩ học châu Âu xưa nay có lý do coi là thể loại cao quý
nhất và khó nhất. Sáng tạo được những bi kịch thực thụ tức là sánh ngang
với Eschyle, Sophocle, Shakespeare, Corneille, Racine – mơ ước của hàng
trăm, hàng ngàn người viết kịch trên khắp thế giới trong ba thế kỷ nay.
Điều đó làm cho chúng ta thêm tự hào về thành công rực rỡ của nhà viết
kịch Việt Nam Nguyễn Huy Tưởng.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Mấy vấn đề về việc dạy học tác phẩm Vũ Như Tô và trích đoạn Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị: Trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh Mã số: SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Mấy vấn đề về việc dạy học tác phẩm Vũ Như Tô và trích đoạn Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng Người thực hiện: Trần Thị Châu Thưởng Lĩnh vực nghiên cứu: Quản lý giáo dục: Phương pháp dạy học bộ môn: Văn Phương pháp giáo dục: Lĩnh vực khác: Có đính kèm: Mô hình Phần mền Phim ảnh Hiện vật khác Năm học: 2011 – 2012 ´ SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Biên Hoà, ngày 2 tháng 5 năm 2012 PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học: 2011 – 2012 Tên sáng kiến kinh nghiệm: Mấy vấn đề về việc dạy học tác phẩm Vũ Như Tô và trích đoạn Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng. Họ và tên tác giả: Trần Thị Châu Thưởng Đơn vị: Tổ Văn Lĩnh vực: Quản lý giáo dục Phương pháp dạy học bộ môn: Văn Phương pháp giáo dục Lĩnh vực khác: 1. Tính mới - Có giải pháp hoàn toàn mới - Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có 2. Hiệu quả - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao 3. Khả năng áp dụng - Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách: Tốt Khá Đạt - Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào thực tế cuộc sống: Tốt Khá Đạt - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng: Tốt Khá Đạt XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: Trần Thị Châu Thưởng 2. Ngày tháng năm sinh: 04-10-1964 3. Nam, nữ: Nữ 4. Địa chỉ: R317, đường A3, Võ Thị Sáu, phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai 5. Điện thoại (NR): 0613.600660 6. Fax: 7. Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn tổ Ngữ văn 8. Đơn vị công tác: Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị: Tốt nghiệp Đại học Sư phạm - Năm nhận bằng: 1986 - Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy Văn THPT Số năm kinh nghiệm: 26 năm - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: +, Sáng kiến kinh nghiệm: Dạy văn nghị luận theo chương trình và sách giáo khoa mới, bậc trung học phổ thông, 2007; +, Nghị luận xã hội, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2009; +, Chuyên đề: Nguyễn Minh Châu – cuộc đời và sự nghiệp văn chương, 2009 +, SKKN: Học theo dự án – Kết hợp hoc và du khảo về văn hóa Đồng Nai, 2010 +, SKKN: Một số kinh nghiệm trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn, 2011 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Khi dàn dựng vở kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, đạo diễn Phạm Thị Thành nhận xét: Vũ Như Tô là một trong những vở kịch sâu sắc và hoàn chỉnh nhất của Việt Nam. Nhà nghiên cứu văn học Phong Lê cho rằng, kịch Vũ Như Tô có vóc dáng vạm vỡ của một tượng đài. Phạm Vĩnh Cư sau khi đã dành nhiều tâm huyết để nghiên cứu vở kịch đã đánh giá: Vũ Như Tô là tác phẩm bi kịch duy nhất và đích thực của Nguyễn Huy Tưởng. Nó đáp ứng đầy đủ và khá hoàn hảo mọi yêu cầu, mọi tiêu chí của một thể loại văn học mà mĩ học châu Âu xưa nay có lý do coi là thể loại cao quý nhất và khó nhất. Sáng tạo được những bi kịch thực thụ tức là sánh ngang với Eschyle, Sophocle, Shakespeare, Corneille, Racine – mơ ước của hàng trăm, hàng ngàn người viết kịch trên khắp thế giới trong ba thế kỷ nay. Điều đó làm cho chúng ta thêm tự hào về thành công rực rỡ của nhà viết kịch Việt Nam Nguyễn Huy Tưởng. Qua những lời nhận xét trên hẳn chúng ta đã nhận thấy tầm vóc vĩ đại của vở kịch Vũ Như Tô và vị trí vinh quang của Nguyễn Huy Tưởng trong nền kịch Việt Nam. 2. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, kịch Vũ Như Tô được tác giả hoàn thành năm 1941, đến năm 1943 mới xuất hiện lần đầu trên tạp chí Tri Tân. Nửa thế kỉ sau, năm 1995, vở kịch mới ra mắt công chúng lần đầu tiên trên sân khấu Nhà hát Tuổi trẻ. Thời gian càng lùi xa, giới nghiên cứu văn học cũng như đông đảo công chúng mới phát hiện chiều sâu ý nghĩa và những phẩm chất nghệ thuật ưu tú của vở kịch. 3. Năm 2005, Vũ Như Tô được đưa vào giảng dạy trong nhà trường phổ thông, với trích đoạn mang tên Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. Với một vở kịch hàm súc, nhiều lớp nghĩa tiềm ẩn, việc giúp học sinh hiểu đúng và cảm thụ được giá trị tác phẩm, quả thật, không đơn giản. Vì vậy, chúng tôi viết sáng kiến kinh nghiệm này, với mong muốn lí giải rõ hơn MẤY VẤN ĐỀ VỀ VIỆC DẠY HỌC TÁC PHẨM VŨ NHƯ TÔ VÀ TRÍCH ĐOẠN VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG 4. Năm 2012, kỉ niệm 100 năm ngày mất của Nguyễn Huy Tưởng, bài viết này xin như một nén nhang dâng lên hương hồn nhà văn lớn của dân tộc. II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI 1. Thuận lợi Sau thời kì đổi mới văn học, kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng mới thực sự trở thành đối tượng được giới phê bình nghiên cứu quan tâm chuyên sâu. Tháng 5 năm 1992, Hội thảo khoa học về Nguyễn Huy Tưởng được tổ chức tại Viện Văn học, trong đó có khá nhiều tham luận đề cập trực tiếp đến vở kịch, coi như một sự bỗng nhiên phát hiện ra một tác phẩm lớn của văn học nước nhà (Phạm Vĩnh Cư). Từ đó đến nay, đã có nhiều bài phê bình về tác phẩm Vũ Như Tô. Đó là thuận lợi cho người nghiên cứu và học tập. 2. Khó khăn - Tác giả Nguyễn Huy Tưởng và tác phẩm Vũ Như Tô vừa được đưa vào chương trình Ngữ văn bậc trung học năm 2005. Vì vậy, còn khá mới mẻ đối với cả giáo viên và học sinh. - Các bài phê bình, nghiên cứu, ngay cả sách giáo khoa vẫn còn nhiều vấn đề chưa nhất quán khiến người dạy nhiều lúng túng trong việc truyền đạt kiến thức. - Với một tác phẩm kịch, đặc biệt kịch Vũ Như Tô, dạy một trích đọan trong thời lượng 2 tiết là một thử thách cho giáo viên. III. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI Sáng kiến kinh nghiệm gồm 4 phần: 1. Cuộc đời và sự nghiệp của một trí thức say mê lịch sử nước nhà. 2. Nguyễn Huy Tưởng và Vũ Như Tô. 3. Nhìn lại việc giảng dạy tác phẩm Vũ Như Tô trong nhà trường thời gian qua. 4. Một vài đề xuất khi dạy học đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. IV. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ 1. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của một trí thức say mê lịch sử nước nhà Nguyễn Huy Tưởng sinh ngày 6 tháng 5 năm 1912 trong một gia đình nhà nho tại làng Dục Tú, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội. Thuở nhỏ ông sống ở làng. Cha ông mất sớm, ông chịu sự giáo dục, nuôi dưỡng chủ yếu của mẹ, một người phụ nữ tần tảo, nhân từ có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành nhân cách của con mình. Khoảng năm lên mười tuổi, Nguyễn Huy Tưởng được gửi xuống ăn học ở Hải Phòng, sống với gia đình người chị gái lớn tuổi. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, ông đã say mê những câu chuyện về các nhân vật anh hùng trong lịch sử. Vùng đất Dục Tú quê hương ông, nơi mà có nhà nghiên cứu cho là tất cả mọi cái đều là lịch sử đã truyền cho ông sự say mê đặc biệt, một sự say mê có thể nói là nhục cảm, về quá khứ oai hùng của cha ông, đồng thời cũng sớm đặt ra cho ông những băn khoăn của người dân mất nước. Năm 18 tuổi, khi còn là cậu học trò thành chung, ông đã xác định con đường đi của mình: Phận sự của người tầm thường như tôi muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn quốc ngữ thôi. Với ý thức ấy, cậu học trò Nguyễn Huy Tưởng âm thầm tìm đọc các tác giả cổ điển Pháp, Nga, Trung Quốc., hầu tìm thấy ở các nhà văn bậc thầy những bài học sáng tác thơ, kịch, tiểu thuyết. Đồng thời, cậu cũng miệt mài cấu tứ những vần thơ đầu tiên, ghi lại những suy nghĩ về văn chương, nghệ thuật, đạo đức của riêng mình trong những trang nhật ký viết khá đều đặn. Những trang viết đầu tay của Nguyễn Huy Tưởng còn lưu giữ được, cho thấy sự vụng về của một người không hẳn đã có năng khiếu bẩm sinh về văn chương, nhưng cũng bộc lộ một khát vọng lớn lao, một tâm hồn nhạy cảm với những suy nghĩ nhiều khi vượt quá tầm của một cậu học trò đang tập sự nghề văn. Công việc đó thầm lặng kéo dài suốt từ năm 1930 (nếu chỉ tính từ thời điểm Nguyễn Huy Tưởng để lại tập bản thảo sớm nhất còn lưu giữ được – hồi ký Cái đời tôi) cho đến đầu những năm 40, khi ông bắt đầu có tác phẩm được công bố: bộ ba truyện, kịch lịch sử Đêm Hội Long Trì (1942), Vũ Như Tô, An Tư (1943). Sớm đến chủ nghĩa yêu nước, Nguyễn Huy Tưởng đã tham gia nhiều hoạt động mang tính chất xã hội, cách mạng. Khi còn là một học sinh ở Hải Phòng, ông tham gia rải truyền đơn, treo cờ búa liềm ở chợ Sắt Đến khi làm công chức sở Đoan (thuế quan) ở tuổi 30, ông tham gia hoạt động Hướng đạo, những mong luyện chí cả gan vàng và sau đó là hoạt động Truyền bá quốc ngữ ở Hải Phòng và Hà Nội. Đặc biệt, từ cuối năm 1942, ông bắt liên lạc với phong trào Việt Minh, và đầu năm 1943, gia nhập tổ chức Văn hóa cứu quốc của Đảng. Từ đây, cuộc đời Nguyễn Huy Tưởng chuyển sang một bước ngoặt mới, nguy hiểm hơn nhưng cũng hào hứng hơn, cả trong hoạt động xã hội cũng như trong sự nghiệp văn chương. Những ngày khởi nghĩa, Nguyễn Huy Tưởng được đoàn thể tín nhiệm cử đi dự Đại hội quốc dân Tân Trào. Cách mạng tháng Tám thành công, ông tham gia biên tập báo Cờ giải phóng, Tiên phong và là Tổng thư ký Ban trung ương vận động đời sống mới, Ngày 1/1/1946, ông được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương và cũng năm 1946 được vào Quốc hội khóa I, giữ chức Phó thư ký Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam. Kháng chiến toàn quốc, ông được giao nhiệm vụ tổ chức Đoàn văn hóa kháng chiến, đưa các nghệ sĩ lên chiến khu tham gia kháng chiến. Năm 1948, ông tham gia sáng lập tạp chí Văn nghệ, Nhà xuất b
File đính kèm:
skkn_may_van_de_ve_viec_day_hoc_tac_pham_vu_nhu_to_va_trich.pdf