SKKN Kinh nghiệm giảng dạy văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn Lớp 10 THPT
Chương trình Ngữ Văn lớp 10 đến nay đã trải qua 5 năm thực hiện đổi
mới sách giáo khoa của Bộ Giáo dục Đào tạo. Bên cạnh việc lựa chọn
các tác phẩm văn học mang tính hình tượng, sử dụng hư cấu với một số
thể loại chính như: thơ, truyện, tiểu thuyết (gọi chung là văn bản nghệ
thuật) là việc sử dụng tác phẩm văn học không hư cấu được viết bằng
nhiều thể loại khác nhau theo mỗi giai đoạn như: nghị luận, sử kí, văn tế,
phú, dân ca lịch sử, Nếu như chương trình sách giáo khoa trước đây ít
chú ý thể loại văn nghị luận (giảng văn nghị luận) thì chương trình mới
xuất hiện khá nhiều loại này. Như vậy, vấn đề thể loại văn học được mở
rộng phạm vi, giáo viên và học sinh có điều kiện bao quát về hệ thống
thể loại văn học trong nhà trường. Đáng lưu ý nhất là thể loại văn nghị
luận, việc giảng dạy và tiếp nhận các tác phẩm thể loại này chưa được
chú ý đúng mức.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Kinh nghiệm giảng dạy văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn Lớp 10 THPT

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 10 THPT MỤC LỤC Trang I. Lý do chọn đề tài. ......................................................................................... 2 II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu. ............................................................. 3 1. Hệ thống văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn 10 ...................... 3 2. Kết quả khảo sát và những nhược điểm còn tồn tại trong dạy và học......... 5 III. Nội dung đề tài . ......................................................................................... 6 1. Cơ sở lý luận . .............................................................................................. 6 2. Giải pháp thực hiện . .................................................................................... 7 2.1. Xuất phát từ đặc trưng phong cách thể loại .............................................. 7 2.1.1. Khái niệm ............................................................................................ 7 2.1.2. Chức năng và đặc trưng ...................................................................... 9 2.1.3. Đặc điểm ...........................................................................................13 2.2. Vận dụng lịch sử giai đoạn xuất hiện của tác phẩm để lí giải ................15 2.3. Bám sát nội dung và hình thức văn bản để triển khai ............................16 2.4. Gia tăng chất văn học..............................................................................17 2.5. Sử dụng vai trò tưởng tượng, liên tưởng của học sinh ...........................18 3. Thực hiện: Thiết kế bài học. ......................................................................20 IV. Kết quả .....................................................................................................33 V. Bài học kinh nghiệm .................................................................................33 VI. Kết luận ....................................................................................................34 VII. Tài liệu tham khảo ..................................................................................36 I. Lý do chọn đề tài: 1. Chương trình Ngữ Văn lớp 10 đến nay đã trải qua 5 năm thực hiện đổi mới sách giáo khoa của Bộ Giáo dục Đào tạo. Bên cạnh việc lựa chọn các tác phẩm văn học mang tính hình tượng, sử dụng hư cấu với một số thể loại chính như: thơ, truyện, tiểu thuyết (gọi chung là văn bản nghệ thuật) là việc sử dụng tác phẩm văn học không hư cấu được viết bằng nhiều thể loại khác nhau theo mỗi giai đoạn như: nghị luận, sử kí, văn tế, phú, dân ca lịch sử,Nếu như chương trình sách giáo khoa trước đây ít chú ý thể loại văn nghị luận (giảng văn nghị luận) thì chương trình mới xuất hiện khá nhiều loại này. Như vậy, vấn đề thể loại văn học được mở rộng phạm vi, giáo viên và học sinh có điều kiện bao quát về hệ thống thể loại văn học trong nhà trường. Đáng lưu ý nhất là thể loại văn nghị luận, việc giảng dạy và tiếp nhận các tác phẩm thể loại này chưa được chú ý đúng mức. 2. Việc dạy và học văn bản nghị luận gặp nhiều khó khăn bởi các lí do sau: - Mục đích của văn bản nghị luận: phát ngôn cho một tư tưởng, một quan điểm, một chủ trương, một lập trường xã hội nhất định. Vì thế, nội dung thường là các vấn đề có tính chất thời sự, chính trị, văn hoá, quốc gia, dân tộc, lịch sử, tương đối rộng với tầm hiểu biết phổ biến của học sinh. - Hình thức: thường sử dụng hệ thống lập luận chặt chẽ, nhiều lí lẽ, đa dạng về phương thức biểu hiện và các phương tiện nghệ thuật. - Đặc điểm: khô khan, ít phù hợp với tâm lí và nhận thức của học sinh; ít tính văn chương, khó đi vào cảm xúc của người đọc; ý tưởng thâm thuý khó nắm bắt, - Nguồn tư liệu bổ trợ khan hiếm. 3. Xu thế hội nhập quốc tế hiện nay đang đặt mỗi cá nhân trước nhiều thách thức mới, nhất là các vấn đề chính trị xã hội. Việc tiếp nhận các văn bản nghị luận trong nhà trường góp phần không nhỏ trong việc hình thành hệ thống quan điểm, tư tưởng cho thế hệ trẻ trong việc xử lí các vấn đề đặt ra của cuộc sống một cách đúng đắn, vừa phù hợp với tinh thần thời đại mới, vừa đảm bảo tinh thần quốc gia, dân tộc. Trong khi đó, những văn bản nghị luận lại được giảng dạy và tiếp nhận với tư cách là tác phẩm văn học, vì thế, cái khó của người dạy là vừa đảm bảo tính khách quan của tác phẩm, vừa truyền lại những rung cảm của văn bản với tư cách là một sáng tạo nghệ thuật thật sự. Chính vì tầm quan trọng của thể loại, sự khó khăn của giáo viên khi giảng dạy, tôi xin được đề xuất một vài kinh nghiệm có tính chất cá nhân góp phần đổi mới hướng nghiên cứu và giảng dạy môn Văn trong nhà trường qua đề tài: “Kinh nghiệm giảng dạy những văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn lớp10”. II. Thực trạng 1. Hệ thống văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn 10: chiếm khối lượng khá nhiều. Bộ Thể Loại Tên văn bản Tác giả Năm Trang SGK cơ bản Chính trị Đại cáo bình Ngô Nguyễn Trãi Cuối 1427 Tập 2 tr.16 Văn hoá XH Tựa “Trích diễm thi tập” (trích) Hoàng Đức Lương 1497 Tập 2 tr.28 Hiền tài là nguyên khí của quốc gia (Trích Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba) Đọc thêm Thân Nhân Trung 1484 Tập 2 tr.31 Nhân vật LS Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn Ngô Sĩ Liên Nhà Trần Tập 2 tr.41 (Trích Đại Việt sử kí toàn thư) Thái sư Trần Thủ Độ (Trích Đại Việt sử kí toàn thư) Đọc thêm Ngô Sĩ Liên Nhà Lý – Trần Tập 2 tr.46 SGK nâng cao Chính trị Thư dụ Vương Thông lần nữa (Trích Quân trung từ mệnh tập) Nguyễn Trãi Tháng 2 – 1427 Tập 2 tr.16 Đại cáo bình Ngô Nguyễn Trãi Cuối 1427 Tập 2 tr.24 Văn hoá XH Hiền tài là nguyên khí của quốc gia (Trích Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba) Đọc thêm Thân Nhân Trung 1484 Tập 2 tr.41 Tựa “trích diễm thi tập” (trích) Hoàng Đức Lương 1497 Tập 2 tr.50 Nhân vật lịch sử Phẩm bình nhân vật lịch sử (Trích Đại Việt sử kí toàn thư) Đọc thêm Lê Văn Hưu 1272 Tập 2 tr.43 Thái phó Tô Hiến Thành (Trích Đại Việt sử lược) Một số sử gia Cuối TK14 Tập 2 tr.53 Thái sư Trần Thủ Độ (Trích Đại Việt sử kí toàn thư) Ngô Sĩ Liên Nhà Lý - Trần Tập 2 tr.62 Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (Trích Đại Việt sử kí toàn thư) Đọc thêm Ngô Sĩ Liên Nhà Trần Tập 2 tr. 65 2. Kết quả khảo sát và những nhược điểm còn tồn tại trong dạy và học: Đối với việc dạy học Văn ở các cấp học nói chung và ở trường học phổ thông nói riêng, việc làm sao để đảm bảo được nội dung kiến thức bài học mà đồng thời học sinh lại phải chủ động chiếm lĩnh kiến thức bài học theo yêu cầu đổi mới về phương pháp hiện nay quả thật là điều không dễ thực hiện. Văn học là khoa học nhưng cũng là nghệ thuật, vì vậy việc dạy văn đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng nhiều kĩ năng, trong đó không chỉ là kiến thức mà đòi hỏi cả sự sáng tạo, linh hoạt của người giáo viên ở mỗi bài dạy cụ thể. Sự chuẩn bị kĩ càng cho việc lên lớp của người giáo viên từ khâu chuẩn bị - tức là phần thiết kế bài dạy - là một trong những yếu tố góp phần không nhỏ vào hiệu quả của tiết học, đặc biệt là với những tiết học đọc văn, trong đó có những văn bản nghị luận. Trước thực tế đó, tôi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu về phía học sinh. Cụ thể, tôi đã phát câu hỏi cho 407 học sinh lớp 10 của trường để các em phát biểu những cảm nhận và nêu ý kiến, nguyện vọng của mình khi tiếp cận các văn bản nghị luận. Nội dung câu hỏi là: Em có cảm nhận như thế nào khi học những văn bản nghị luận? Kết quả : + 78,62% học sinh trả lời: Văn bản nghị luận có ý nghĩa, thực tế nhưng đa phần dài, khô khan, khó nhớ nên không thích học bằng các văn bản thuộc thể loại khác. + 14,99% học sinh trả lời: có thích học nhưng chưa thật sự hiểu. + 6,39% học sinh trả lời: không hiểu gì, không thích học. Kết quả trên cho thấy, phần đa học sinh không thích học văn bản thuộc thể loại nghị luận. Tuy nhiên, có đến 78,62% học sinh nhận ra ý nghĩa của văn bản nghị luận, nghĩa là nguyên nhân các em không thích học các văn bản này là do chưa thực sự hứng thú với giờ học mà thôi. Từ thực trạng trên, cộng với kinh nghiệm giảng dạy cá nhân, tôi nhận thấy trong dạy và học văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn lớp 10 còn tồn tại những nhược điểm sau: - Phía người dạy: + Tâm lí: ít hứng thú, chưa coi trọng, giờ dạy ít hào hứng. + Cách truyền đạt: chú ý tính nội dung văn bản nhiều hơn tính nghệ thuật, vì thế, giờ dạy thiên về lí trí hơn việc biểu đạt những xúc cảm thẩm mĩ. + Kết quả: nghiêng về những thông tin, dư âm của những rung cảm thẩm mĩ hạn chế. - Phía người học: + Tâm lí tiếp nhận: nghiêng về tìm hiểu những thông tin hơn là việc biểu lộ cảm xúc. + Cách tiếp nhận: nghiêng về mặt xã hội, chính trị. + Kết quả: giờ học tác phẩm thành giờ tìm hiểu lịch sử. Với khối lượng văn bảnkhá nhiều và thực tế dạy - học nêu trên, tôi đề xuất một số giải pháp bước đầu mà bản thân thấy có hiệu quả trong quá trình giảng dạy. II. Nội dung đề tài: 1. Cơ sở lý luận: Văn nghị luận là một thể văn ra đời từ rất lâu. Ở Trung Hoa, văn nghị luận có từ thời Khổng Tử (551- 479TCN). Ở Việt Nam, văn nghị luận cũng là một thể loại có truyền thống lâu đời, có giá trị và tác dụng hết sức to lớn trong trường kì lịch sử, trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Có thể kể từ Chiếu dời đô(1010) của Lí Công Uẩn (Lí Thái Tổ), Hịch tướng sĩ (1285) của Trần Quốc Tuấn cho đến Bình Ngô đại cáo (1428) của Nguyễn Trãi; từ bài Tựa Trích diễm thi tập (1497) của Hoàng Đức Lương, Chiếu cầu hiền (1788) của Ngô Thì Nhậm đến bản điều trần Xin lập khoa luật (1867) của Nguyễn Trường Tộ; Chiếu Cần Vương (1885) đến Hịch đánh Pháp sau này Có thể nói trong suốt trường kì lịch sử dân tộc, văn nghị luận là một
File đính kèm:
kinh_nghiem_giang_day_van_ban_nghi_luan_trong_chuong_trinh_n.pdf