SKKN Kinh nghiệm dạy từ vựng môn Tiếng Anh Lớp 7 Trường Trung học cơ sở Bến Củi
Tiếng anh được coi như là 1 công cụ để giao tiếp đòi hỏi chúng ta phải có một vốn từ, cho nên việc học từ vựng là một tất yếu không thể không kể đến trong việc học tiếng Anh. Nhưng đa phần, học sinh không hiểu được tầm quan trọng của từ vựng nên rất lười học hoặc chỉ học hoa loa rồi không sử dụng được nó, trong đó học sinh khối 7 cũng không ngoại lệ, với lượng kiến thức mới mà nó khác xa với tiếng mẹ đẻ như thế thì học sinh rất sợ học.
Do vậy người giáo viên phải làm gì để từ vựng không còn là “ nổi khó khăn “của học sinh , suy nghĩ ấy cứ làm tôi trăn trở mãi , với vài năm đứng lớp gặp không biết bao nhiêu lần học sinh không thuộc từ vựng , viết sai , hiểu sai câu và không dịch được đã thôi thúc tôi thực hiện đề tài “Kinh nghiệm dạy từ vựng môn tiếng Anh 7”
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Kinh nghiệm dạy từ vựng môn Tiếng Anh Lớp 7 Trường Trung học cơ sở Bến Củi

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM KINH NGHIỆM DẠY TỪ VỰNG MÔN TIẾNG ANH - LỚP 7 TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ BẾN CỦI Họ và tên tác giả : Nguyễn Thị Sơn Ca Đơn vị công tác : Trường THCS Bến Củi 1. Lý do chọn đề tài : - Tiếng anh được coi như là 1 công cụ để giao tiếp đòi hỏi chúng ta phải có một vốn từ, cho nên việc học từ vựng là một tất yếu không thể không kể đến trong việc học tiếng Anh. - Nhưng đa phần, học sinh không hiểu được tầm quan trọng của từ vựng nên rất lười học hoặc chỉ học hoa loa rồi không sử dụng được nó , trong đó học sinh khối 7 cũng không ngoại lệ, với lượng kiến thức mới mà nó khác xa với tiếng mẹ đẻ như thế thì học sinh rất sợ học. Do vậy người giáo viên phải làm gì để từ vựng không còn là “ nổi khó khăn “của học sinh , suy nghĩ ấy cứ làm tôi trăn trở mãi , với vài năm đứng lớp gặp không biết bao nhiêu lần học sinh không thuộc từ vựng , viết sai , hiểu sai câu và không dịch được đã thôi thúc tôi thực hiện đề tài “Kinh nghiệm dạy từ vựng môn tiếng Anh 7” 2/. Đối tượng – phương pháp nghiên cứu : - Học sinh lớp 7 Trường THCS Bến Củi - Phương pháp nghiên cứu tài liệu , dự giờ đồng nghiệp , kiểm tra , đối chiếu , so sánh kết quả của học sinh 3/. Đề tài đưa ra giải pháp mới : - Trước khi đi vào những vấn đề cụ thể , chúng ta thống nhất với nhau rằng , phương pháp chủ đạo trong dạy học ngoại ngữ của chúng ta là lồng ghép , nghĩa là từ mới cần được dạy trong ngữ cảnh , ngữ cảnh có thể là một bài đọc , một đoạn hội thoại hay một bài khoá tuy nhiên , nói đến cùng thì việc dạy và học ngoại ngữ vẫn là việc dạy từ mới như thế nào ?, dạy cấu trúc câu mới như thế nào để học sinh biết cách sử dụng từ mới và cấu trúc mới trong giao tiếp bằng tiếng nước ngoài. Ngay từ đầu , giáo viên cần xem xét các thủ thuật khác nhau cho từng bước xử lý từ vựng trong các ngữ cảnh mới : gợi mở , dạy từ , kiểm tra và củng cố từ vựng. - Có nên dạy tất cả những từ mới không ? dạy bao nhiêu từ trong một tiết thì thừa ? - Dùng sẵn mẫu câu đã học hoặc sắp học để giới thiệu từ mới. - Dùng tranh ảnh , dụng cụ trực quan để giới thiệu từ mới . - Đảm bảo cho học sinh nắm được cấu trúc , vận dụng từ vựng vào cấu trúc để hoàn thiện chức năng giao tiếp . Thiết lập mối quan hệ giữa cấu trúc mới và vốn từ đã có. - Khắc sâu vốn từ trong trí nhớ của học sinh thông qua các mẫu câu và qua những bài tập thực hành. 4. Hiệu quả áp dụng: - Các tiết học trở nên sôi nổi và sinh động hơn. - Học sinh đã thuộc các từ mới ngay tại lớp học. - Vốn từ vựng của các em tăng lên rõ rệt. - Các em học sinh yếu kém có thể sử dụng được từ vựng vào những câu đơn giản. Những học sinh khá có thể sử dụng từ vựng trong những câu phức tạp hơn. 5. Phạm vi áp dụng : - Có thể áp dụng cho các học sinh khối 7,8 ở trường và các trường THCS trong huyện Bến củi ngày tháng năm 2008 Người thực hiện NGUYỄN THỊ SƠN CA A. MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài : Để nắm bắt các thông tin văn hoá – khoa học kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài, thì điều quan trọng trước mắt là chúng ta phải học tiếng nước ngoài, phải học để hiểu và nói được một thứ tiếng phổ biến nhất thế giới đó là tiếng Anh . Là một giáo viên dạy bộ môn tiếng Anh , đào tạo những lớp người sau này có thể nắm bắt được những thông tin của nước ngoài áp dụng vào việc xây dựng đất nước Việt Nam ta ngày càng giàu mạnh hơn . Giáo viên phải nhận thức rằng bộ môn tiếng Anh được coi là một công cụ để giao tiếp , đòi hỏi chúng ta phải có một số vốn từ, cho nên việc học từ vựng là một tất yếu không thể không kể đến trong việc học tiếng Anh . Ơû trường trung học cơ sở giáo viên dạy học cho học sinh cùng với các môn khác trên cơ sở trang bị cho học sinh hệ thống những kỹ năng , kỹ xảo cần thiết, nhằm đào tạo đội ngũ lao động có tri thức, có tay nghề, có kỹõ năng thực hành, năng động và sáng tạo .., việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng cho học sinh giáo viên không chỉ chú ý vào việc truyền thụ kiến thức trong sách giáo khoa, sử dụng các phương tiện dạy học mà phải quan tâm đến việc tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học , đề cao và phát huy tốt vai trò tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, tổ chức cho học sinh lĩnh hội tri thức bằng chính hoạt động của mình, nhưng đa phần học sinh không hiểu tầm quan trọng của từ vựng nên rất lười học hoặc chỉ học hoa loa rồi không sử dụng được nó , trong đó có học sinh lớp 7A , với lượng kiến thức mới mà nó khác xa với tiếng mẹ đẻ như thế thì học sinh rất sợ học. Do vậy người giáo viên phải làm gì để từ vựng không còn là ‘ nỗi khó khăn ‘ của học sinh, suy nghĩ làm tôi trăn trở mãi , với kinh nghiệm vài năm đứng lớp , gặp không biết bao nhiêu lần học sinh không thuộc từ vựng , viết sai , hiểu câu sai đãï thôi thúc tôi thực hiện đề tài . kinh nghiệm dạy từ vựng môn tiếng anh 7. 2. Đối tượng nghiên cứu : - Được phân công giảng dạy môn tiếng Anh , tôi chọn lớp 7A để nghiên cứu đề tài với mục tiêu cải tiến phương pháp dạy học tiếng Anh 8, nhằm phát triển vốn từ vựng cho học sinh và qua đó áp dụng vào thực tế nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy ở học sinh khối 7, mà đặc biệt là lớp 7A. 3. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này có thể áp dụng giảng dạy cho các học sinh khối 6, 7, 8, 9 ở các trường trung học cơ sở trong huyện. 4. Phương pháp nghiên cứu : Tôi đã tìm tòi nghiên cứu các tài liệu, kết hợp dự giờ, thực nghiệm, kiểm tra đối chiếu các kết quả học tập của học sinh, hầu rút ra được phương pháp dạy tốt nhất cho các em. B.NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận : Luật Giáo dục – 2005 (điều 5) quy định “phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.” Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “ Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu: “ Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh , phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh. 2. Cơ sở thực tiễn: - Bất cứ một thứ tiếng nào trên thế giới, muốn giao tiếp được với nó, đòi hỏi chúng ta phải có một vốn từ. Bởi vì từ vựng là một thành phần không thể thiếu được trong ngôn ngữ, được sử dụng cho hoạt động giao tiếp. Do vậy, việc nắm vững số từ đã học để vận dụng là việc làm rất quan trọng. - Trong Tiếng anh chúng ta không thể rèn luyện và phát triển bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh mà không dựa vào nền tảng của từ vựng. Thật vậy nếu không có số vốn từ cần thiết, các em sẽ không nghe được và hệ quả của nó là không nói được, đọc không được và viết cũng không xong, cho dù các em có nắm vững mẫu câu. 3/. Nội dung vấn đề: a. Thực trạng: - Theo phân phối chương trình hiện nay, môn tiếng Anh 7 mỗi tuần 03 tiết, mà hầu như tiết nào cũng có từ mới trong bài học và kể cả trong bài tập. Nhưng muốn dạy tốt từ vựng để tiết học sinh động hơn, Giáo viên phải làm tranh ảnh, đồ dùng để minh hoạ, tạo điều kiện cho các em nhớ từ dễ dàng và hướng sự chú ý của các em vào chủ đề hay trọng tâm bài học. - Về sự phân bố tiết trong tuần, có khi một buổi các em phải học hai tiết tiếng Anh liên tiếp, phải tải một số lượng từ rất nhiều. Điều này chắc chắn sẽ gây tâm lý quá tải cho một số học sinh, gây ảnh hưởng rất nhiều đến tiết học sau. - Về phía học sinh, bên cạnh một số em học hành nghiêm túc, có không ít học sinh chỉ học hoa loa, không khắc sâu được từ vựng vào trong trí nhớ, không tập đọc, tập viết thường xuyên, không thuộc nghĩa hai chiều. Đến khi giáo viên yêu cầu các em sẽ không thành công. - Về phía học sinh, cũng rất khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng dẫn các em tự học ở nhà. Bởi vì vậy là môn ngoại ngữ, không phải phụ huynh nào cũng biết. Đây cũng là vấn đề hết sức khó khăn trong quản lý việc học ở nhà của học sinh. - Ngoài ra, cách học từ vựng của học sinh cũng là điều đáng được quan tâm, học sinh thường học từ vựng bằng cách đọc từ bằng tiếng Anh và cố nhớ nghĩa bằng tiếng Việt, có viết trong tập viết cũng là để đối phó với giáo viên, chứ chưa có ý thức tự kiểm tra lại mình, để khắc sâu từ mới và vốn từ sẵn có. Vì thế cho nên, các em rất mau quên và dễ dàng lẫn lộn giữa từ này với từ khác. Do vậy, nhiều học sinh đâm ra chán học và bỏ quên. Cho nên giáo viên cần chú ý đến tâm lý này của học sinh. b. Định hướng chung của đề tài: Sau khi phân tích những nguyên nhân làm cho học sinh sợ học tiếng Anh, thường xuyên không thuộc bài và việc dạy từ vựng ở trường phổ thông chưa đạt hiệu quả cao. Cụ thể vào đầu năm học khi nhận giảng dạy tiếng Anh lớp 7, sau vài tiết học đầu tiên, tôi cho học sinh lớp 7A làm bài kiểm tra từ vựng, tôi yêu cầu các em nối từ tiếng Anh với nghĩa từ tiếng Việt phù hợp (Matching). Dịch từ sang tiếng Việt, dịch từ sang tiếng Anh. Cuối cùng tôi thu được kết quả như sau: TSHS Nối từ Dịch sang tiếng Việt Dịch sang tiếng Anh 34 Với kết quả như thế, tôi quyết định thử áp dụng một số kinh nghiệm dạy từ vựng của mình qua những năm đứng lớp và suốt những tiết học sau tôi áp dụng những kinh nghiệm của mình được trình bày sau đây, để cuối năm so sánh với kết quả ban đầu. 4. Quá trình thực hiện: a/. Lựa chọn từ để dạy: Tiếng Anh là một môn học có
File đính kèm:
skkn_kinh_nghiem_day_tu_vung_mon_tieng_anh_lop_7_truong_trun.pdf