SKKN Hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng thực hành thí nghiệm trong giờ học Vật lý ở bậc THCS

Thường thì, do kinh nghiệm sống học sinh đã có một số vốn hiểu biết nào đó về

các hiện tượng Vật lí. Nhưng không thể coi những hiểu biết ấy là cơ sở giúp họ tự

nghiên cứu Vật lí bởi vì trước một hiện tượng vật lí, học sinh có thể có những hiểu biết

khác nhau, thậm chí là sai. Ví dụ: Học sinh nào cũng thấy được mọi vật rơi là do Trái

Đất hút, nhưng không ít học sinh lại cho rằng vật nặng thì rơi nhanh hơn vật nhẹ. Vì

vậy, khi giảng dạy Vật lí, giáo viên một mặt phải tận dụng những kinh nghiệm sống

của học sinh, nhưng mặt khác phải chỉnh lí, bổ sung, hệ thống hoá những kinh nghiệm

đó và nâng cao lên mức chính xác, đầy đủ bằng các thí nghiệm Vật lí, nhờ đó mà tránh

được tính chất giáo điều, hình thức trong giảng dạy.

Làm các thí nghiệm Vật lí có tác dụng to lớn trong việc phát triển nhận thức của

học sinh, giúp các em quen dần với phương pháp nghiên cứu khoa học, vì qua đó các

em được tập quan sát, đo đạc, được rèn luyện tính cẩn thận, kiên trì, điều đó rất cần

cho việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp, chuẩn bị cho học sinh tham gia hoạt động thực tế.

Do được tận mắt, tự tay tháo lắp các dụng cụ, thiết bị và đo lường các đại lượng,., các

em có thể nhanh chóng làm quen với những dụng cụ và thiết bị dùng trong đời sống và

sản xuất sau này.

pdf 21 trang Huy Quân 01/04/2025 240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng thực hành thí nghiệm trong giờ học Vật lý ở bậc THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng thực hành thí nghiệm trong giờ học Vật lý ở bậc THCS

SKKN Hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng thực hành thí nghiệm trong giờ học Vật lý ở bậc THCS
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
HƯỚNG DẪN HỌC SINH RÈN 
LUỴỆN KỸ NĂNG THỰC HÀNH 
THÍ NGHIỆM TRONG GIỜ HỌC 
VẬT LÝ Ở BẬC THCS 
MỞ ĐẦU 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ. 
Làm các thí nghiệm vật lí ở nhà trường là một trong các biện pháp quan trọng 
nhất để phấn đấu nâng cao chất lượng dạy và học Vật lí. Điều này quyết định bởi đặc 
điểm của khoa học Vật lí vốn là khoa học thực nghiệm và bởi nguyên tắc dạy học là 
nguyên tắc trực quan “học đi đôi với hành”. 
Thường thì, do kinh nghiệm sống học sinh đã có một số vốn hiểu biết nào đó về 
các hiện tượng Vật lí. Nhưng không thể coi những hiểu biết ấy là cơ sở giúp họ tự 
nghiên cứu Vật lí bởi vì trước một hiện tượng vật lí, học sinh có thể có những hiểu biết 
khác nhau, thậm chí là sai. Ví dụ: Học sinh nào cũng thấy được mọi vật rơi là do Trái 
Đất hút, nhưng không ít học sinh lại cho rằng vật nặng thì rơi nhanh hơn vật nhẹ. Vì 
vậy, khi giảng dạy Vật lí, giáo viên một mặt phải tận dụng những kinh nghiệm sống 
của học sinh, nhưng mặt khác phải chỉnh lí, bổ sung, hệ thống hoá những kinh nghiệm 
đó và nâng cao lên mức chính xác, đầy đủ bằng các thí nghiệm Vật lí, nhờ đó mà tránh 
được tính chất giáo điều, hình thức trong giảng dạy. 
Làm các thí nghiệm Vật lí có tác dụng to lớn trong việc phát triển nhận thức của 
học sinh, giúp các em quen dần với phương pháp nghiên cứu khoa học, vì qua đó các 
em được tập quan sát, đo đạc, được rèn luyện tính cẩn thận, kiên trì, điều đó rất cần 
cho việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp, chuẩn bị cho học sinh tham gia hoạt động thực tế. 
Do được tận mắt, tự tay tháo lắp các dụng cụ, thiết bị và đo lường các đại lượng,..., các 
em có thể nhanh chóng làm quen với những dụng cụ và thiết bị dùng trong đời sống và 
sản xuất sau này. 
Đặc biệt, việc thực hiện các thí nghiệm Vật lí là rất phù hợp với đặc điểm tâm, 
sinh lí và khả năng nhận thức của học sinh, đồng thời tạo điều kiện rèn luyện cho học 
sinh các kỹ năng thực hành và thái độ ứng xử trong thực hành, cần thiết cho việc học 
tập Vật lí ở các cấp học trên. 
 Bộ giáo dục đã triển khai thay sách giáo khoa với mục tiêu là để giảm tải kiến 
thức, tăng tính chủ động cho học sinh. Cụ thể, phần lớn các kiến thức mới đều được rút 
ra từ các kinh nghiệm, nhiều tiết thực hành đã được đưa vào chương trình với sự giúp 
đỡ đắc lực của các thiết bị đồ dùng thí nghiệm. 
II. GIỚI HẠN CỦA KINH NGHIÊM. 
Nhận thức sâu sắc được tầm quan trọng của thí nghiệm Vật lí trong việc đáp ứng 
mục tiêu của bộ môn Vật lí, tôi đã chọn phương pháp:“Hướng dẫn học sinh rèn luỵện 
kỹ năng thực hành thí nghiệm trong giờ học Vật lý ở bậc THCS” làm nội dung sáng 
kiến của mình. Đi vào nghiên cứu vấn đề này, tôi xin được trình bày những nội dung 
chính sau: 
Phần I: Cơ sở lí luận. 
Phần II: Biện pháp thực hiện. 
Phần III: Đánh giá kết quả đạt được qua quá trình giảng dạy của bản thân. 
NỘI DUNG 
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN 
A. PHÂN LOẠI CÁC THÍ NGHIỆM VẬT LÍ 
Trong dạy học Vật lí, mỗi thí nghiệm tiến hành trong tiết học đều được quy về 
một trong hai dạng thí nghiệm sau: 
I. THÍ NGHIỆM BIỂU DIỄN 
Thí nghiệm biểu diễn là thí nghiệm do giáo viên trình bày ở trên lớp. 
Căn cứ vào mục đích, có thể chia thí nghiệm biểu diễn thành 3 loại: 
1. Thí nghiệm nêu vấn đề 
Thí nghiệm này nhằm nêu lên vấn đề cần nghiên cứu tạo ra tình huống có vấn đề 
làm tăng hiệu quả của dạy học. 
 Ví dụ: Trước khi dạy bài áp suất khí quyển, giáo viên có thể làm thí nghiệm: 
Đổ đầy một cốc nước rồi đậy lên miệng cốc một mảnh giấy, giữ và lật ngược cốc lại 
rồi buông tay ra sẽ thấy tờ giấy không rơi. Giáo viên nêu vấn đề cho bài học: “Tại sao 
lại có hiện tượng đó? Để giải thích được, chúng ta đi vào nghiên cứu bài mới.” 
2. Thí nghiệm giải quyết vấn đề: 
 Thí nghiệm thuộc bài này được thực hiện giải quyết vấn đề đặt ra sau phần nêu 
vấn đề. Bao gồm hai loại thí nghiệm: 
a. Thí nghiệm khảo sát 
 Là thí nghiệm tiến hành nghiên cứu vấn đề đặt ra thông qua đó giáo viên hướng 
dẫn học sinh đi đến khái niệm cần thiết. 
 Ví dụ: Thí nghiệm về sự sinh ra lực của chất rắn khi dãn nở gặp vật cản. 
b. Thí nghiệm kiểm chứng 
Là thí nghiệm dùng để kiểm tra lại những kết luận được suy ra từ lí thuyết. 
 Ví dụ: Thí nghiệm kiểm tra lại hiện tượng suy ra từ lí thuyết ở bài tập 1 – Bài 
30: Bài tập vận dụng quy tắc nắm tay phải và quy tắc bàn tay trái - Vật lí 9. 
3. Thí nghiệm củng cố: 
Thí nghiệm thuộc loại này dùng để củng cố kiến thức đã nghiên cứu bao gồm cả 
những thí nghiệm nói lên ứng dụng của kiến thức Vật lí trong đời sống và trong kỹ 
thuật. 
Ví dụ: Khi nghiên cứu về áp suất khí quyển giáo viên có thể làm thí nghiệm ứng 
dụng để chế tạo ra áp kế như hình vẽ: 
Hoặc: Khi học về chương âm học (Vật lí 7) có thể cho học sinh làm những chiếc 
đàn bằng những kiến thức đã học. 
II. THÍ NGHIỆM THỰC HÀNH VẬT LÍ: 
Thí nghiệm thực hành Vật lí là thí nghiệm do tự tay học sinh tiến hành đưới sự 
hướng dẫn của giáo viên. 
*Phân loại: 
Với dạng thí nghiệm này có nhiều cách phân loại, tuỳ theo căn cứ để phân loại: 
1. Căn cứ vào nội dung: 
Có thể chia thí nghiệm thực hành làm hai loại: 
a. Thí nghiệm thực hành định tính. 
 Loại thí nghiệm này có ưu điểm nêu bật bản chất của hiện tượng. 
 Ví dụ: Thí nghiệm nghiên cứu tính dẫn nhiệt của các chất; nghiên cứu sự nóng 
chảy, đông đặc của các chất. 
b. Thí nghiệm thực hành định lượng. 
 Loại thí nghiệm này có ưu điểm giúp học sinh nắm được quan hệ giữa các đại 
lượng vật lí một cách chính xác rõ ràng. 
Ví dụ: Thí nghiệm nghiên cứu sự cân bằng của đòn bẩy để tìm ra công thức 
 F1/F2 = l2/ l1, thí nghiệm xác định điện trở,... 
2. Căn cứ vào tính chất 
Có thể chia thí nghiệm thực hành làm hai loại: 
a. Thí nghiệm thực hành khảo sát. 
 Loại thí nghiệm này học sinh chưa biết kết quả thí nghiệm, phải thông qua thí 
nghiệm mới tìm ra được các kết luận cần thiết. Loại thí nghiệm này được tiến hành 
trong khi nghiên cứu kiến thức mới. 
 Ví dụ: Các thí nghiệm nghiên cứu về đặc điểm chung của nguồn âm của bài 
“nguồn âm” - Vật lí 7. 
b. Thí nghiệm kiểm nghiệm 
 Loại thí nghiệm này được tiến hành kiểm nghiệm lại những kết luận đã được 
khẳng định cả về lí thuyết và thực nghiệm nhằm đào sâu vấn đề hơn. 
 Ví dụ: Thí nghiệm “Kiểm nghiệm mối quan hệ Q ~ I2 trong định luật Jun -
Lenxơ” - Vật lí 9. 
3. Căn cứ vào hình thức tổ chức thí nghiệm: 
Có thể chia thí nghiệm thực hành thành 3 loại: 
a. Thí nghiệm thực hành đồng loạt. 
Loại thí nghiệm này tất cả các nhóm học sinh đều cùng làm một thí nghiệm, 
cùng thời gian và cùng một kết quả. Đây là thí nghiệm được sử dụng nhiều nhất hiện 
nay vì có nhiều ưu điểm. Đó là: 
+ Trong khi làm thí nghiệm các nhóm trao đổi giúp đỡ nhau và kết quả trung 
bình đáng tin cậy hơn. 
+ Việc chỉ đạo của giáo viên tương đối đơn giản vì mọi việc uốn nắn hướng dẫn, 
sai sót, tổng kết thí nghiệm đều được hướng dẫn đến tất cả học sinh. 
Bên cạnh những ưu điểm, còn một số hạn chế: 
+ Do trình độ các nhóm không đồng đều nên có nhóm vội vàng trong khi thao 
tác dẫn đến hạn chế kết quả. 
+ Đòi hỏi nhiều bộ thí nghiệm giống nhau gây khó khăn về thiết bị. 
b. Thí nghiệm thực hành loại phối hợp: 
Trong hình thức tổ chức này học sinh được chia thành nhiều nhóm khác nhau, 
mỗi nhóm chỉ làm thí nghiệm một phần trong thời gian như nhau, sau đó phối hợp các 
kết quả của các nhóm lại sẽ được kết quả cuối cùng. 
Ví dụ: Trong bài “Công thức tính nhiệt lượng” - Vật lí 8. Giáo viên phân công: 
+ Nhóm 1, 2: Tiến hành thí nghiệm khảo sát quan hệ giữa nhiệt lượng vật cần 
thu vào để nóng lên và khối lượng của vật. 
+ Nhóm 3, 4: Tiến hành thí nghiệm khảo sát quan hệ giữa nhiệt lượng vật cần 
thu vào để nóng lên và độ tăng nhiệt độ của vật. 
+ Nhóm 5, 6: Tiến hành thí nghiệm khảo sát quan hệ giữa nhiệt lượng vật cần 
thu vào để nóng lên với chất làm vật. 
=>Kết quả thí nghiệm của các nhóm khái quát thành công thức tính nhiệt lượng 
vật thu vào để nóng lên: Q = m.c. t 
-Ưu điểm của loại thí nghiệm này: 
+ Rèn luyện cho học sinh ý thức lao động tập thể. 
+ Kích thích tinh thần thi đua làm việc giữa các nhóm. 
-Một số hạn chế của loại thí nghiệm này: Mỗi nhóm không được rèn luyện đầy 
đủ các kĩ năng làm toàn diện thí nghiệm. 
Vì vậy cần khắc phục bằng cách cho các nhóm luân phiên nhau làm lại thí 
nghiệm. 
c. Thí nghiệm thực hành cá thể: 
Trong hình thức tổ chức này các nhóm học sinh làm thí nghiệm trong cùng thời 
gian hoặc cùng đề tài nhưng dụng cụ và phương pháp khác nhau. 
Ví dụ: Thí nghiệm nghiên cứu sự nhiễm điện do cọ xát - Vật lí 7. 
-Ưu điểm của loại thí nghiệm này: Giảm được khó khăn về bộ thí nghiệm. 
-Một số hạn chế của loại thí nghiệm này:Việc hướng dẫn của giáo viên rất phức 
tạp. Vì vậy hình thức này đòi hỏi tính tự lực cao nên chỉ thích hợp cho các lớp trên. 
B. CÁC LOẠI BÀI HỌC THÍ NGHIỆM THỰC HÀNH VẬT LÍ: 
1. Thí nghiệm thực hành khảo sát đồng loạt lớp: 
Trong kiểu bài này tất cả các nhóm học sinh cùng làm thí nghiệm khảo sát trong 
giờ học thay cho thí nghiệm biểu diễn của giáo viên để nhận thức kiến thức mới. Nội 
dung có thể là định tính hay định lượng. 
2. Thí nghiệm thực hành kiểm nghiệm đồng loạt lớp: 
Loại thí nghiệm này thường sử dụng cho thí nghiệm định lượng. 
Ví dụ: Thí nghiệm kiểm nghiệm độ lớn của lực đẩy acsimét - Vật lí 8 
3. Thí nghiệm thực hành ở ngoài lớp: 
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm ở nhà với mục đích chuẩn bị bài 
sau hoặc củng cố bài học. 
Ví dụ: Thí nghiệm làm dàn của học sinh ở bài tập 10.4, 10.5 – Bài tập Vật lí 7. 
Thí nghiệm nghiên cứu hiện tượng khuếch tán với dung dịch đồng sunfát (CuSO4) - 
Vật lí 8. 
PHẦN II: MỘT SỐ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN. 
I. Đối với thí nghiệm biểu diễn: 
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của các thí nghiệm biểu diễn, bản thân tôi 
luôn có gắng thực hiện tốt các nội dung sau: 
1. Thí nghiệm phải đảm bảo thành công: Nếu thí nghiệm thất bại học sinh sẽ 
mất tin tưởng vào bài học và ảnh hưởng xấu đến uy tín của giáo viên. Muốn làm tốt 
được điều này, giáo viên phải: 
-Am hiểu bản chất của các hiện tượng vật lí xảy ra trong thí nghiệm. 
-Nắm v

File đính kèm:

  • pdfskkn_huong_dan_hoc_sinh_ren_luyen_ky_nang_thuc_hanh_thi_nghi.pdf