SKKN Dạy bài tập Hóa học cho học sinh tự học có sự hỗ trợ của giáo viên bộ môn
Khi còn là học sinh ở trường THPT, tôi đã luôn nhận ra tầm quan trọng của bộ môn hóa, có thể là một trong sáu môn thi tốt nghiệp, là rất quan trọng nếu chọn ban A, B trong các kì thi vào cao đẳng, đại học. Đến khi làm giáo viên giảng dạy bộ môn hóa tôi nghĩ đa số các em có nhận định giống tôi. Thế nên những năm đầu dạy bộ môn, tôi đầu tư nghiên cứu soạn giảng sao cho bố cục bài giảng chặt chẽ, chính xác, có logic, đầy đủ kiến thức, học sinh dể hiểu bài, và tôi đứng trên bục giảng giảng một cách tự tin trôi chảy.
Trong thời gian đó tôi không ngừng nghiên cứu, tham khảo, học hỏi, trao đổi những kinh nghiệm từ đồng nghiệp để trao dồi và nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, nhằm nâng cao nhận thức của học sinh về bộ môn hóa học trong học tập và vận dụng trong cuộc sống, từ đó học sinh ngày càng yêu thích bộ môn, có hứng thú trong học tập, tích cực chủ động trong học tập và kết quả cuối cùng là sao cho chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao. Để được một kết quả giáo dục như kỳ vọng với chất lượng đầu vào của học sinh tại trường tôi còn thấp là một thách thức lớn của tập thể cán bộ giáo viên nhân viên của nhà trường, mỗi giáo viên trong chúng tôi phải thực hiện kế hoạch của mình theo chỉ đạo của lãnh đạo nhà trường để hoàn thành nhiệm vụ.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Dạy bài tập Hóa học cho học sinh tự học có sự hỗ trợ của giáo viên bộ môn

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM DẠY BÀI TẬP HÓA HỌC CHO HỌC SINH TỰ HỌC CÓ SỰ HỖ TRỢ CỦA GIÁO VIÊN BỘ MÔN I. MỞ ĐẦU - Khi còn là học sinh ở trường THPT, tôi đã luôn nhận ra tầm quan trọng của bộ môn hóa, có thể là một trong sáu môn thi tốt nghiệp, là rất quan trọng nếu chọn ban A, B trong các kì thi vào cao đẳng, đại học. Đến khi làm giáo viên giảng dạy bộ môn hóa tôi nghĩ đa số các em có nhận định giống tôi. - Thế nên những năm đầu dạy bộ môn, tôi đầu tư nghiên cứu soạn giảng sao cho bố cục bài giảng chặt chẽ, chính xác, có logic, đầy đủ kiến thức, học sinh dể hiểu bài, và tôi đứng trên bục giảng giảng một cách tự tin trôi chảy. Trong thời gian đó tôi không ngừng nghiên cứu, tham khảo, học hỏi, trao đổi những kinh nghiệm từ đồng nghiệp để trao dồi và nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, nhằm nâng cao nhận thức của học sinh về bộ môn hóa học trong học tập và vận dụng trong cuộc sống, từ đó học sinh ngày càng yêu thích bộ môn, có hứng thú trong học tập, tích cực chủ động trong học tập và kết quả cuối cùng là sao cho chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao. - Để được một kết quả giáo dục như kỳ vọng với chất lượng đầu vào của học sinh tại trường tôi còn thấp là một thách thức lớn của tập thể cán bộ giáo viên nhân viên của nhà trường, mỗi giáo viên trong chúng tôi phải thực hiện kế hoạch của mình theo chỉ đạo của lãnh đạo nhà trường để hoàn thành nhiệm vụ. - Hiện nay kinh tế đất nước cũng ảnh hưởng chung của suy thoái kinh tế toàn cầu, vấn đề về tiết kiệm được đặt lên hàng đầu. Tất cả các ngành, tổ chức đều kêu gọi tiết kiệm. Ngành giáo dục cũng hưởng ứng từ việc dùng điện có hiệu quả bằng cách kêu gọi học sinh tắt đèn quạt khi rời khỏi phòng, dùng giấy tiết kiệm.Nhưng theo tôi dạy học tiết kiệm nhiều nhất là thời gian học. - Môn hóa học là môn được kiểm tra đánh giá theo hình thức trắc nghiệm 100% ở các kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông, cao đẳng, đại học. Thời lượng để đảm bảo kiến thức môn học không nhiều, số tiết luyện tập còn ít. Tôi thiết nghĩ chỉ có giao bài tập trắc nghiệm theo từng chương của chương trình môn học, học sinh tự học có sự hổ trợ của giáo viên bộ môn để giải quyết vấn đề trên. II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI LÀM ĐỀ TÀI II.1.THUẬN LỢI: 1. Về phía giáo viên: - Còn trẻ, nhiệt huyết, thật sự yêu nghề. - Khắc phục được các khó khăn trong cuộc sống, trong dạy học, thường xuyên học hỏi, trao dồi tích lũy kinh nghiệm. - Được sự giúp đỡ của đồng nghiệp, lãnh đạo nhà trường, lãnh đạo cấp trên. - Thường xuyên được bồi dưỡng các chuyên đề: dạy học theo sơ đồ tư duy, dạy học hoạt động nhóm nhỏ, tiết dạy thực hành thí nghiệm mẫu. - Cơ sở vật chất, thiết bị của nhà trường tương đối đủ thực hiện nhiệm vụ. - Hiện nay đã có giới hạn chương trình giúp giáo viên chủ động hơn về thời gian luyện tập, củng cố bài cũ. 2. Về phía học sinh: - Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học, học sinh có tinh thần cầu tiến. - Học sinh hiện nay rất nhanh nhạy sử dụng máy tính tiện lợi trong việc tra cứu tài liệu học tập, nắm bắt thông tin. - Kinh tế xã hội ngày càng phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh trong học tập chia sẻ kiến thức. II.2. KHÓ KHĂN: 1. Về phía giáo viên: - Là giáo viên trẻ nên kinh tế bản thân vẫn còn nhiều khó khăn. - Chuẩn bị, soạn giảng mất nhiều thời gian. - Phải kiên trì cả một khoảng thời gian dài thực hiện kế hoạch. 2. Về phía học sinh: - Áp lực học tập rất lớn, yêu cầu cao nhiều môn học. - Yêu cầu xã hội, cơ hội vào các trường đại học cao đẳng. - Học sinh chưa rèn luyện được phương pháp tự học, cộng tác học tập. - Chưa lên được kế hoạch để làm chủ thời gian học tập. - Một bộ phận học sinh còn lười học, chưa hoàn thành các bài tập về nhà kể cả các bài tập rất dể. II.3 KẾT QUẢ: - Một số học sinh còn học tập theo kiểu đối phó, thầy cô nào giao việc kiểm tra thường xuyên thi chép bài tập của bạn, học tập theo mùa kiểm tra, mùa thi. III. NỘI DUNG III.1. HOẠCH ĐỊNH KẾ HOẠCH THỰC HIỆN 1. Kế hoặch quản lí học sinh trong giờ bộ môn: Phổ biến đến mỗi lớp về cách tổ chức giờ học, cách đánh giá cho điểm. 2. Hướng dẫn cách học ở nhà, cách đọc sách giáo khoa, sách tham khảo. 3. Dựa vào chương trình sách giáo khoa, đưa ra một số chuyên đề - Chuyên đề 1: Phản ứng oxi hóa khử. - Chuyên đề 2: Sự điện li và toán pha chế. - Chuyên đề 3: Chuyên đề về viết đồng phân và lập công thức phân tử. - Chuyên đề 4: Phương pháp giải nhanh toán hữu cơ. Ngoài các chuyên đề trên tối có giao bài tập về nhà cho học sinh theo từng chương của chương trình môn học. III.2.THỰC HIỆN CÁC KẾ HOẠCH ĐÃ HOẠCH ĐỊNH 1. Quản lí học sinh trong giờ bộ môn: Đây là mục tiêu rất quan trọng vì nếu giáo viên làm việc nhiều, chuẩn bị rất chu đáo bài giảng của mình nhưng không được sự cộng tác của học sinh thì xem như thất bại. 1.a. Cách thức tổ chức giờ học: - Giáo viên kiểm tra bài cũ, kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh. - Nếu là giờ hoạt có hoạt động nhóm nhỏ: Giáo viên chia nhóm lần đầu và áp dụng cho cả năm học. Mỗi nhóm tự chuẩn bị dụng cụ học tập như bảng, phấn bông bôi bảng sẵn dưới bàn, tránh trường hợp phân chia dụng cụ học tập trong giờ học gây hỗn loạn lớp học. Giáo viên cũng chuẩn bị sẵn các phiếu học tập giao việc cho lớp trưởng hoặc lớp phó ngồi ngay đầu bàn, nhanh nhẹn giao cho các nhóm. - Học sinh trình bày phần làm việc của mình lên bảng và thuyết trình nếu nhóm được lựa chọn. Đánh giá nhận xét giữa các nhóm. - Giáo viên có hệ thống câu hỏi chất vấn nhằm đủ ý và nêu bật trọng tâm của vấn đề đang xét. - Giáo viên luôn lắng nghe, quan sát, chọn thời điểm thích hợp để định hướng, gợi ý cho các em đi vào trọng tâm, chốt lại kiến thức trọng tâm, xác định được phần khó, giáo viên phân tích và chốt lại kiến thực trọng tâm cho học sinh. - Chuẩn bị sẵn hệ thống câu hỏi để củng cố và khắc sâu kiến thức cho học sinh. - Gợi ý cho các em đánh giá lẫn nhau, và giáo viên kết luận công bằng về việc đánh giá cho điểm lẫn nhau, đồng thời kết luận điểm số của học sinh, giáo viên ghi nhận các con điểm đó. 1.b. Cách đánh giá cho điểm: - Gọi 3 học sinh lên kiểm tra bài cũ, chỉ những em có soạn bài đầy đủ hoặc gần như đầy đủ được kiểm tra bài cũ, những em không soạn bài được ghi điểm 0 báo cho giáo viên chủ nhiệm đồng thời lưu sổ tay để thường xuyên kiểm tra. Đồng thời gọi 3 học sinh khác kiểm tra tập vở cho điểm luôn. Trong mỗi học kì giáo viên kiểm tra mỗi em 2 lần sự chuẩn bị bài, 1 lần kiển tra bài cũ và 2 cột điểm. - Điểm số sao cho công bằng giữa các học sinh trong lớp, học sinh các lớp. - Học sinh nhiệt tình phát biểu cộng tác học tập tốt với giáo viên được ghi nhận và cộng điểm ưu tiên. 2. Hướng dẫn cách học ở nhà, cách đọc sách giáo khoa, sách tham khảo - Rèn luyện kĩ năng tự học, nuôi dưỡng trí tò mò của trẻ luôn là nền tảng của sự sáng tạo, sự kết nối của nhiều tư duy logic. - Học sinh cần có một thời gian biểu nhất định cho môn học. - Giáo viên bộ môn thường xuyên nhắc nhở học sinh học bài cũ, đọc bài mới. - Giáo viên phổ biến cho học sinh về chương trình môn học từ đầu vào lớp 10: HK I HKII LỚP 10 - Hóa học đại cương, các định luật, qui luật, các khái niệm, phản ứng oxi hóa khử. - Các phi kim nhóm VII, nhóm VI, cân bằng hóa học và tốc độ phản ứng. LỚP 11 - Chương sự điện li, phản ứng trao đổi ion, phi kim nhóm V, nhóm IV. - Hóa học hữu cơ. LỚP 12 - Hóa học hữu cơ - Kim loại. - Giáo viên có thể kiểm tra học sinh có đọc bài ở nhà không bằng cách hỏi chương đang học là gì, bài học sắp tới là gì, gồm mấy phần. - Mỗi phần mới của chương trình giáo viên có thể giới thiệu cho học sinh sách tham khảo, hoặc học sinh có thể tìm những quyển sách tương tự như thế ở thư viện của trường. 3. Dựa vào chương trình sách giáo khoa, đưa ra một số chuyên đề: Phạm vi áp dụng, triển khai của các chuyên đề: - Các chuyên đề được thực hiện trong các tiết học phụ đạo tăng tiết theo tiến độ và số tiết đã được tổ trưởng bộ môn triển khai thực hiện đối với các lớp A6, A7, A8, A9. Các lớp trên giáo viên có thể cho các em photo tự đọc, giải các bài tập tự giải trao trách nhiệm cho tổ trưởng mỗi tổ kiểm tra đôn đốc, các em có thể chia sẽ giúp đỡ nhau giải bài tập, sau một tuần giáo viên có thể đưa ra đáp án để các em so sánh. - Đây là các chuyên đề hỗ trợ kiến thức nên có thể dạy được cả các giờ phụ đạo tăng tiết, học sinh lớp yếu có thể biết tất cả các dạng của chuyên đề nhưng giáo viên chỉ triển khai kĩ những phần cơ bản thường gặp chủ yếu giúp đỡ cho các em tự tin thi học kì, thi tốt nghiệp. IV. TRIỂN KHAI CÁC CHUYÊN ĐỀ: IV.1.CHUYÊN ĐỀ 1: PHẢN ỨNG OXI HÓA KHỬ - MỨC ĐỘ QUAN TRỌNG CỦA CHUYÊN ĐỀ: Số tiết dạy nhiều, lượng kiến thức là trọng tâm xuyên suốt chương trình hóa học THPT như là lớp 11 dùng nhiều trong bài HNO3, lớp 10 bài HCl, H2SO4, lớp 12 hầu như xuyên suốt học kỳ 2. PHẦN 1: GIÁO VIÊN LÀM TRƯỚC BÀI TẬP MẪU + Số oxi hóa: Khái niệm, các qui tắc tính số oxi hóa của nguyên tố (trong đó có vài trường hợp về số oxi hóa của hợp chất hữu cơ quen thuộc), bài tập áp dụng. + Phản ứng oxi hóa – khử: Các khái niệm, cách cân bằng phản ứng oxi hóa – khử, chọn lựa bài tập áp dụng từ dễ đến khó, chỉ dẫn mẫu một vài phản ứng cụ thể. + Cân bằng từng bước, xác định chất oxi hóa, chất khử, chất làm môi trường phản ứng, nếu có? 1. Phản ứng oxi hóa – khử đơn giản: VD:H2S + O2 S + H2O (1) -2 2H S + 0 2O 0 S + -2 2H O (1) -2 S 0 S + 2e 2 0 2O + 2 2e 2 -2 O 1 2H2S + SO2 2S + 2H2O (1). Chất khử: H2S, hoặc -2 S ; chất oxi hóa O2. H2S + O2 SO2 + H2O (2) -2 2H S + 0 2O +4 -2 2S O + -2 2H O (2). -2 S +4 S + 6e 2 Vẫn là 0 2O + 2 2e 2 -2 O 3 hoặc có học sinh viết là 2 0 O + 2 2e 2 -2 O 3 vẫn đúng Đưa hệ số vào phương trình, cần chú ý: Học sinh 1: 2 -2 2H S + 3 0 2O 2 +4 -2 2S O + 6 -2 2H O (2). Học sinh 2: 2 -2 2H S + 3 0 2O 2 +4 -2 2S O + 2 -2 2H O (2). Đây l
File đính kèm:
skkn_day_bai_tap_hoa_hoc_cho_hoc_sinh_tu_hoc_co_su_ho_tro_cu.pdf