Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng bản đồ tư duy trong dạy và học Sinh học
Cùng với việc đổi mới mục tiêu và nội dung dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp
dạy học theo triết lý lấy người học làm trung tâm được đặt ra một cách bức thiết. Bản chất
của dạy học lấy người học làm trung tâm là phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, độc lập,
sáng tạo của người học. Người học là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo và thái độ chứ không phải là “cái bình chứa kiến thức” một cách thụ động.
Trong thực tế hiện nay, nhiều học sinh chưa biết cách học, mà chỉ học thuộc lòng,
học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm,
hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau.
Với đặc trưng riêng của môn Sinh học: môn học nghiên cứu đối tượng sống bao gồm:
nghiên cứu các đặc điểm cấu tạo, các quá trình sinh lí, hóa sinh, các mối quan hệ giữa các
tổ chức sống với nhau và với môi trường, sự vận động của thế giới sống qua không gian
và thời gian, thì phương pháp chuyển tải bằng sơ đồ thường mang lại hiệu quả cao.
Trong giảng dạy GV cũng đã lập bảng biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ, và cả lớp có chung
cách trình bày giống như cách của GV, chứ không phải do HS tự xây dựng theo cách hiểu
của mình, hơn nữa, các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét.
Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in
đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy việc
sử dụng bản đồ tư duy (BĐTD) trong dạy- học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc,
hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học, tất cả
HS tham gia xây dựng bài một cách hào hứng, giúp học sinh học tập một cách chủ động,
tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não,
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng bản đồ tư duy trong dạy và học Sinh học

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ỨNG DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY VÀ HỌC SINH HỌC LỜI CÁM ƠN Để hoàn thành chuyên đề này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, hỗ trợ của Quý Thầy Cô, các bạn đồng nghiệp và cả các em học sinh. Do đó, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến : BGH trường THPT Trấn Biên – Biên Hòa – Đồng Nai đã động viên, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện chuyên đề này. Quí Thầy Cô trong tổ Hóa – Sinh, các bạn đồng nghiệp ở trường THPT Trấn Biên đã góp ý, giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề. Các em học sinh đã tham gia tích cực. Do thời gian hạn chế nên trong trình bày chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được Quí Thầy Cô tham khảo, đóng góp ý kiến xây dựng, để nội dung chuyên đề được hoàn chỉnh và có thể mở rộng, giúp cho việc dạy - học của giáo viên - học sinh có hiệu quả hơn. SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN: 1. Họ và tên: PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO 2. Sinh ngày: 21/ 06/ 1981 3. Giới tính: Nữ 4. Địa chỉ: 103/8 KP I phường Tân Tiến Biên Hòa - Đồng Nai 5. Điện thọai: 0934.064.084 6. Chức vụ: Giáo viên 7. Đơn vị công tác: Trường THPT Trấn Biên II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO: - Hoc vị: cử nhân - Năm nhận bằng: 2003 - Chuyên ngành đào tạo: Sinh học. III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: giảng dạy sinh học - Số năm kinh nghiệm: Từ 2003. - Các sáng kiến kinh nghiệm dã có trong những năm gần đây: * Sử dụng môt số phương pháp dạy học trong Sinh học 10. * Tổ chức họat động nhóm trong dạy học Sinh học. * Sử dụng phiếu học tập trong dạy học Sinh học. Đề tài: ỨNG DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY VÀ HỌC SINH HỌC. A. TRÌNH BÀY ĐỀ TÀI. I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Cùng với việc đổi mới mục tiêu và nội dung dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo triết lý lấy người học làm trung tâm được đặt ra một cách bức thiết. Bản chất của dạy học lấy người học làm trung tâm là phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Người học là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ chứ không phải là “cái bình chứa kiến thức” một cách thụ động. Trong thực tế hiện nay, nhiều học sinh chưa biết cách học, mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau. Với đặc trưng riêng của môn Sinh học: môn học nghiên cứu đối tượng sống bao gồm: nghiên cứu các đặc điểm cấu tạo, các quá trình sinh lí, hóa sinh, các mối quan hệ giữa các tổ chức sống với nhau và với môi trường, sự vận động của thế giới sống qua không gian và thời gian, thì phương pháp chuyển tải bằng sơ đồ thường mang lại hiệu quả cao. Trong giảng dạy GV cũng đã lập bảng biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ, và cả lớp có chung cách trình bày giống như cách của GV, chứ không phải do HS tự xây dựng theo cách hiểu của mình, hơn nữa, các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy việc sử dụng bản đồ tư duy (BĐTD) trong dạy- học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học, tất cả HS tham gia xây dựng bài một cách hào hứng, giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não, Việc ứng dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình, họat động nhóm có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH. Mặt khác đổi mới phương pháp dạy và học xưa nay thường gắn nhiều với khoa học công nghệ, đòi hỏi hạ tầng cơ sở vật chất tốt. Những điều kiện này lại thường khó thực hiện ở vùng sâu vùng xa, nơi kinh tế còn nhiều khó khăn. Với BĐTD, nhiều trường học ở các tỉnh vùng sâu, vùng cao vẫn có thể áp dụng. Với những lý do trên dã đưa tôi đến chọn đề tài “ Ứng dụng Bản Đổ Tư Duy trong dạy và học Sinh học ”. II. CƠ SỞ LÍ LUẬN 1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học - Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học. - Bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. - Tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. 2. Những xu hướng đổi mới phương pháp dạy học nói chung - Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học. Chuyển trọng tâm hoạt động từ giáo viên sang học sinh. Chuyển lối học từ thông báo tái hiện sang tìm tòi khám phá . - Phục vụ ngày càng tốt hơn hoạt động tự học và phương châm học suốt đời. Không chỉ dạy kiến thức mà còn dạy cách học, trang bị cho học sinh phương pháp học tập, phương pháp tự học. - Tăng cường rèn luyện năng lực tư duy, khả năng vận dụng kiến thức vào cuộc sống thực tế. Chuyển từ lối học nặng về tiêu hóa kiến thức sang lối học coi trọng việc vận dụng kiến thức. - Cá thể hóa việc dạy học. - Tăng cường sử dụng thông tin trên mạng, sử dụng tối ưu các phương tiện dạy học đặc biệt là tin học và công nghệ thông tin vào dạy học. - Từng bước đổi mới việc kiểm tra đánh giá, giảm việc kiểm tra trí nhớ đơn thuần, khuyến khích việc kiểm tra khả năng suy luận, vận dụng kiến thức, sử dụng nhiều loại hình kiểm tra thích hợp. III. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI. 1. Thuận lợi: Giáo dục ngày càng được xã hội quan tâm, đầu tư về cơ sở vật chất, đổi mới về nội dung và phương pháp giảng dạy, đổi từ cách dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp dạy – học tích cực”. Bản thân được học tập đầy đủ các khóa tập huấn thay SGK, tham dự chuyên đề do Sở GD – ĐT tỉnh Đồng Nai tổ chức nhằm giúp cho GV tiếp cận tốt phương pháp mới. Tôi cũng cố gắng tìm đọc, sưu tầm nhiều tài liệu tham khảo. Bên cạnh đó là sự quan tâm giúp đỡ tận tình của Ban Giám Hiệu nhà trường, quý đồng nghiệp và các em HS trong qúa trình thực hiện đề tài. 2. Khó khăn: Đa số HS không có một mục tiêu rõ ràng trong học tập, trong từng môn học, mục tiêu trong tương lai thấp. HS chấp nhận điểm số mình có được mà không nỗ lực cải thiện vươn lên. Khi đặt mục tiêu học tập thì đa số HS không có một kế hoạch nào cụ thể về những công việc, mức độ công việc, thời gian thực hiện công việc để đạt được mục tiêu đó, đa số HS theo lối suy nghĩ “đến đâu hay đến đó”, chính điều này lại hình thành thói quen làm việc không có kế hoạch của các em sau này. HS chưa có ý thức đọc bài trước ở nhà. Ở trường học học sinh chỉ được dạy “ học cái gì ” chứ không được dạy “ học như thế nào? ”. IV. NỘI DUNG ĐỀ TÀI. 1. Những bất lợi của việc ghi chú kiểu truyền thống: Ghi chú kiểu truyền thống là ghi chú thành từng câu, thường từ trái sang phài, được tạo ra bằng cách tổng hợp các khái niệm quan trọng từ các đọan văn trong sách họac viết dưới dạng nhiều phần mục được đánh số và sắp xếp theo trình tự. Mặc dù phương pháp ghi chú kiểu truyền thống là phương pháp chúng ta được dạy và được hầu hết các học sinh sử dụng nhưng hiệu quả dạy và học không cao. Tại sao? - Không giúp tiết kiệm thời gian: Vì trong 1 câu văn có 2 lọai từ: + Từ khóa: chiếm khỏang 20-40% nhưng chứa gần 100% thông tin. + Từ thứ yếu: chiếm khỏang 60-80% nhưng chứa ít thông tin. Kiểu ghi chú này vẫn chứa đựng những từ thứ yếu nhưng không cần thiết cho việc học Thời gian và cả trí nhớ bị lãng phí. - Sử dụng nhiều từ thứ yếu, ít sử dụng màu sắc, hình ảnh kết quả ghi nhớ thông tin kém, không rõ ràng, không tận dụng được trí tưởng tuợng. - Chưa tận dụng tối đa não bộ: không tận dụng chức năng của não phải( nhạy cảm với màu sắc, hình ảnh, tưởng tượng, hình dạng, nhịp điệu) ,chỉ tận dụng chức năng nảo trái( xử lý về từ ngữ, tính tóan, đườn g nét) khả năng ghi nhớ thông tin bị giảm. 2. Khái niệm bản đồ tư duy: - Bản đồ tư duy (BĐTD) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy, là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức, bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. - Bạn hãy tưởng tượng tới một chú bạch tuộc có thân ở giữa và những chiếc súc tua (vòi) xung quanh. Những chiếc tua này kiếm mồi nuôi sống toàn bộ cơ thể bạch tuộc. BĐTD gồm 1 vấn đề lớn đặt ở trung tâm và các nhánh ý tưởng toả ra xung quanh. - BĐTD có ở khắp mọi nơi trong cuộc sống, chỉ cần chúng ta chú ý: Một bông hoa với nhuỵ ở trung tâm và rất nhiều cánh vòng quanh. Một cây gỗ có những cành và lá tạo thành tán rộng. 3. Ưu điểm của BĐTD: - Kiến thức được trình bày cô đọng tổng quát, các nội dung được hệ thống liện kết với nhau, sử dụng hình ảnh, màu sắc sinh động, toàn bộ ý của sơ đồ có thể "nhìn thấy" phát huy tối đa tiềm năng tư duy, ghi nhớ của bộ não, giúp HS hiểu và nhớ lâu bài học, hỗ trợ hiệu quả các phương pháp dạy học. - Tiết kiệm thới gian vì nó chỉ tận dụng các từ khóa. - BĐTD là sơ đồ mở, việc thiết kế không yêu cầu khắt khe chi tiết như bản đồ địa lý, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ 1 kiểu khác nhau Kích thích hứng thú học tập và khả năng sáng tạo của HS. - Phương tiện thiết kế bản đồ tư duy khá đơn giản, dễ tìm, kinh tế: giấy, bìa, bảng phụ, bút chì màu, phấn màu hoặc dùng phần mếm có thể vận dụng với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các trường hiện nay - Phát triển năng khiếu hội họa, sở thích mỗi người, được tự do chọn màu sắc, đường nét, tự sáng tác nên những BĐTD, thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày của từng cá nhân nên cáng yêu quý vá trân trọng “ tác phẩm trí tuệ” của mình. - Rèn luyện cách xác định chủ đề và phát triển ý chính, ý phụ một cách logic. - Sử dụng BĐTD trong dạy học nhóm đã phát huy được tính sáng tạo, tối đa hoá khả năng của mỗi cá nhân đồng thời kết hợp sức mạnh cá nhân thành sức mạnh tập thể để có thể giải quyết
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_ung_dung_ban_do_tu_duy_trong_day_va_ho.pdf