Sáng kiến kinh nghiệm Truyện cười và việc phân tích Truyện cười trong Trường Phổ Thông

Tiếng cười cùng với nước mắt là biểu hiện những trạng thái phong phú của tâm

hồn con người. Nhà nhân văn chủ nghĩa Rabơle vì thế đã cho rằng: “Cười là một đặc

tính của người”. Tiếng cười có tính chất tâm lí đã luôn là người bạn đồng hành của con

người trên mọi nẻo đường của cuộc sống đầy chông gai. Trên cơ sở ấy, truyện cười

dân gian đã ra đời như là một nhu cầu tất yếu của cuộc sống.

Truyện cười là thể loại tự sự dân gian đóng vai trò quan trọng trong đời sống

tinh thần của nhân dân lao động. Trong bản tham luận đọc tại Đại hội Văn nghệ toàn

quốc lần thứ ba, nhà văn Nguyễn Tuân nói “ Tổ tiên ta thật là những người nghệ sĩ tạo

hình cho tiếng cười Việt Nam, tạo nên cho tiếng cười ta bao nhiêu là bóng dáng và có

cả cái gì như là một biên chế đầy đủ thang bậc về tiếng cười” (Cần cười. “ Những

nhiệm vụ mới của văn học”. Nxb Văn học, Hà Nội 1963).

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện cười là thể loại mang những

nét đặc trưng độc đáo. Truyện thường rất ngắn. Dài cũng chỉ từ 15 đến 20 câu, ngắn thì

5, 7 câu, trung bình khoảng trên dưới 10 câu. Tuy rất ngắn nhưng mỗi chuyện đều có

mở đầu, có diễn biến, có kết thúc. Nhân vật trong truyện cười phần lớn là nhân vật độc

đáo, có nét khó quên. Toàn bộ các yếu tố thi pháp của truyện cười như kết cấu, nhân

vật, ngôn ngữ kể chuyện, đều phục vụ mục đích gây cười. Bên cạnh chức năng gây

cười, truyện cười còn mang chức năng giáo dục: nó giúp con người mài sắc tư duy suy

lí, nó làm giàu óc phê phán, bồi dưỡng tinh thần lạc quan, giúp trau dồi khả năng ngôn

ngữ Bởi vậy, đọc truyện cười để cười không khó. Nhưng để có thể hiểu được hết cái

thâm thúy của tác giả dân gian thực không dễ.

pdf 22 trang Huy Quân 01/04/2025 480
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Truyện cười và việc phân tích Truyện cười trong Trường Phổ Thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Truyện cười và việc phân tích Truyện cười trong Trường Phổ Thông

Sáng kiến kinh nghiệm Truyện cười và việc phân tích Truyện cười trong Trường Phổ Thông
1 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
ĐỀ TÀI: 
TRUYỆN CƯỜI VÀ VIỆC PHÂN TÍCH TRUYỆN 
CƯỜI TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG 
2 
MỤC LỤC 
ĐẶT VẤN ĐỀ Trang 
1 Lý do chọn đề tài 2 
 1.1 Ý nghĩa khoa học 2 
 1.2 Ý nghĩa thực tiễn 2 
2 Mục đích nghiên cứu 3 
3 Đối tượng nghiên cứu 3 
4 Phương pháp nghiên cứu 3 
PHẦN NỘI DUNG 
I - NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA THỂ LOẠI TRUYỆN CƯỜI 
1 Khái niệm 4 
2 Những đặc trưng của thể loại truyện cười 5 
 2.1 Đề tài của truyện cười 5 
 2.2 Chức năng của truyện cười 6 
 2.3 Nội dung của truyện cười 6 
 2.4 Thi pháp truyện cười 7 
 2.4.1 Về kết cấu 7 
 2.4.2 Về nhân vật 7 
 2.4.3 Biện pháp nghệ thuật gây cười 12 
II - PHÂN TÍCH TRUYỆN CƯỜI TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG 
1 Định hướng phân tích 13 
2 
3 
 Hoạt động phân tích văn bản 
Áp dụng sáng kiến vào thực tiễn 
14 
17 
PHẦN KẾT LUẬN 22 
3 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
1. Lý do chọn đề tài 
1.1. Ý nghĩa khoa học: 
Tiếng cười cùng với nước mắt là biểu hiện những trạng thái phong phú của tâm 
hồn con người. Nhà nhân văn chủ nghĩa Rabơle vì thế đã cho rằng: “Cười là một đặc 
tính của người”. Tiếng cười có tính chất tâm lí đã luôn là người bạn đồng hành của con 
người trên mọi nẻo đường của cuộc sống đầy chông gai. Trên cơ sở ấy, truyện cười 
dân gian đã ra đời như là một nhu cầu tất yếu của cuộc sống. 
Truyện cười là thể loại tự sự dân gian đóng vai trò quan trọng trong đời sống 
tinh thần của nhân dân lao động. Trong bản tham luận đọc tại Đại hội Văn nghệ toàn 
quốc lần thứ ba, nhà văn Nguyễn Tuân nói “ Tổ tiên ta thật là những người nghệ sĩ tạo 
hình cho tiếng cười Việt Nam, tạo nên cho tiếng cười ta bao nhiêu là bóng dáng và có 
cả cái gì như là một biên chế đầy đủ thang bậc về tiếng cười” (Cần cười. “ Những 
nhiệm vụ mới của văn học”. Nxb Văn học, Hà Nội 1963). 
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện cười là thể loại mang những 
nét đặc trưng độc đáo. Truyện thường rất ngắn. Dài cũng chỉ từ 15 đến 20 câu, ngắn thì 
5, 7 câu, trung bình khoảng trên dưới 10 câu. Tuy rất ngắn nhưng mỗi chuyện đều có 
mở đầu, có diễn biến, có kết thúc. Nhân vật trong truyện cười phần lớn là nhân vật độc 
đáo, có nét khó quên. Toàn bộ các yếu tố thi pháp của truyện cười như kết cấu, nhân 
vật, ngôn ngữ kể chuyện, đều phục vụ mục đích gây cười. Bên cạnh chức năng gây 
cười, truyện cười còn mang chức năng giáo dục: nó giúp con người mài sắc tư duy suy 
lí, nó làm giàu óc phê phán, bồi dưỡng tinh thần lạc quan, giúp trau dồi khả năng ngôn 
ngữ Bởi vậy, đọc truyện cười để cười không khó. Nhưng để có thể hiểu được hết cái 
thâm thúy của tác giả dân gian thực không dễ. 
Vì những lí do trên, tìm hiểu truyện cười là công việc mang ý nghĩa khoa học. 
Nó không chỉ giúp ta hiểu hơn về đời sống tâm hồn, những nghĩ suy của ông cha thời 
xưa mà còn giúp ta cảm được tài năng nghệ thuật độc đáo, tư duy sắc sảo của người 
nghệ sĩ dân gian nhờ đó sống tốt hơn, sống lạc quan hơn. 
1.2. Ý nghĩa thực tiễn 
Hiện nay, trong chương trình sách giáo khoa (SGK) THCS và THPT, truyện 
cười xuất hiện ở cả hai cấp học nhưng với số lượng văn bản ít. SGK Ngữ văn 6 có hai 
truyện: Treo biển và Lợn cưới, áo mới. SGK lớp 10 cũng chỉ có hai truyện là Tam đại 
con gà và Nhưng nó phải bằng hai mày. Ở mỗi khối hai văn bản truyện cười chỉ được 
học trong 1 tiết, như vậy tổng số tiết học dành cho truyện cười trong trường phổ thông 
là 2 tiết. 
Số lượng văn bản và thời lượng như vậy dễ khiến người dạy và người học cho 
rằng đây không phải là kiến thức trọng tâm nên xem nhẹ việc dạy học. Điều này dẫn 
đến tình trạng học qua quýt, cưỡi ngựa xem hoa hoặc thiếu giờ, cháy giáo án. 
4 
Không ít giáo viên có ý thức nghiêm túc trong dạy - học truyện cười song thực 
tế chất lượng các giờ dạy truyện cười chưa cao do khuynh hướng phân tích đơn giản, 
không xuất phát từ những đặc trưng thi pháp của truyện cười dẫn đến kết quả là học 
sinh không hiểu hết cái hay, cái đẹp của truyện cười và không yêu thích truyện cười. 
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Truyện cười và việc phân tích 
truyện cười trong trường phổ thông” nhằm góp một tiếng nói giải quyết khó khăn 
cho những người đứng lớp khi dạy - học truyện cười . Bài viết chắc chắn không tránh 
khỏi những khiếm khuyết. Rất mong sẽ nhận được những ý kiến góp ý chân thành của 
các thầy cô giáo ! 
2- Mục đích nghiên cứu 
 Qua việc tìm hiểu các đặc trưng của thể loại truyện cười, chúng tôi đề xuất 
một phương án dạy - học có hiệu quả các văn bản truyện cười trong SGK Ngữ văn lớp 
6, lớp 10. 
3- Đối tượng nghiên cứu: 
- Những đặc trưng của thể loại truyện cười. 
- Phương pháp dạy - học các văn bản truyện cười trong SGK Ngữ văn lớp 6, 
lớp 10 nhìn từ góc độ thi pháp. 
4- Phương pháp nghiên cứu 
Trong chuyên đề này, người viết trình bày vấn đề trên cơ sở tổng hợp các 
phương pháp nghiên cứu: 
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu. 
- Phương pháp so sánh, phân tích. 
- Phương pháp tổng hợp. 
- Phương pháp thực nghiệm giảng dạy. 
PHẦN NỘI DUNG 
I- NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA THỂ LOẠI TRUYỆN CƯỜI 
 1. Khái niệm 
Cái cười, xét chung có ba loại: 1/ cái cười có nguyên nhân về mặt thể xác ( do 
có cảm giác nhột...) ; 2/ cái cười có nguyên nhân về mặt tâm lý, tình cảm ( do sự vui 
sướng ... ) ; 3/ Cái cười do hiện tượng buồn cười gây ra. 
5 
Và hiện tượng buồn cười này được kể thành truyện cười nhằm mục đích tạo ra tiếng 
cười (cái cười). 
“Hiện tượng buồn cười là hiện tượng về bề ngoài có vẻ hợp tự nhiên, hợp lẽ 
thường, nhưng thực chất thì trái tự nhiên, trái lẽ thường” (Đỗ Bình Trị- Những đặc 
điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian- Nxb Giáo dục- 1999). Tiếng cười hài 
hước có cơ sở ở một loại mâu thuẫn đặc biệt, một loại mâu thuẫn trong đó hai mặt trái 
ngược không mặt nào muốn nhường mặt nào. Người ta bật cười vì chợt nhận thấy 
mình suýt nữa bị đánh lừa bởi hình thức của hiện tượng. Người ta bật cười vì chợt 
nhận thấy mình khám phá được bản chất của hiện tượng. Chừng nào ta chưa tự mình 
phát hiện ra thực chất trái tự nhiên, trái lẽ thường của hiện tượng thì ta chưa thể cười 
được. 
Như vậy, “cái cười là hành động cười nảy sinh khi ta phát hiện ra thực chất 
trái tự nhiên, trái lẽ thường dưới vẻ bề ngoài có vẻ hợp tự nhiên, hợp lẽ thường, 
khiến ta thoạt tiên tưởng lầm, của một hiện tượng.” ( Đỗ Bình Trị- Những đặc điểm 
thi pháp của các thể loại văn học dân gian- Nxb Giáo dục- 1999 ) 
Cái cười vì thế là sản phẩm của hoạt động trí óc, mà cụ thể là óc suy lý. Chính 
tư duy suy lý, tư duy lôgíc phát hiện ra thực chất trái tự nhiên, trái lẽ thường của hiện 
tượng mà bề ngoài của nó có vẻ hợp tự nhiên, hợp lẽ thường. Sự phát hiện ấy, do đó tự 
nó đã bao hàm ý nghĩa phê phán. Đó trước hết là sự phê phán của lý tính, là phản ứng 
của lý trí trước những hiện tượng buồn cười muốn “qua mặt” nó. Vì ý nghĩa này mà 
cái cười ở đây được coi là người trung gian lớn trong việc phân biệt sự thật và điều dối 
trá. Tiếng cười hài hước thể hiện sự thắng lợi của trí tuệ. Đồng thời sự phát hiện ấy 
cũng đem lại cho người ta sự vui vẻ, sự sảng khoái trước những phát hiện thú vị của 
một lý trí tỉnh táo. Tiếng cười trong truyện cười dân gian vì thế vừa mang bản chất 
nhận thức - phê phán vừa có tác dụng mua vui, giải trí. 
Trong truyện dân gian của người Việt, khu vực được gọi là truyện cười khá rộng 
lớn và đa dạng. Nó tiếp giáp với nhiều loại truyện truyền miệng khác, như truyện ngụ 
ngôn, truyện cổ tích ( đặc biệt là truyện cổ tích sinh hoạt ). Khoảng bốn thập kỉ nay, 
danh từ truyện cười được giới nghiên cứu nước ta dùng làm thuật ngữ chuyên môn chỉ 
hình thức truyện kể dân gian có tác dụng gây cười và lấy tiếng cười làm phương tiện 
chủ yếu để khen, chê và mua vui, giải trí. Bởi vậy, Truyện cười là truyện kể về hiện 
tượng buồn cười, thể hiện ở hành vi của nhân vật ( bao gồm cả hành động nói năng 
), nhằm gây cười. ( Đỗ Bình Trị- Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học 
dân gian- Nxb Giáo dục- 1999 ) 
2. Những đặc trưng của thể loại truyện cười 
2.1. Đề tài của truyện cười: 
Trong truyện cười, đề tài của cái cười rất rộng. Người ta tìm cái cười ở mọi lĩnh 
vực, mọi ngóc ngách của cuộc sống. Nhưng nhìn chung, truyện cười dân gian Việt 
Nam thường xoay quanh những đề tài sau: 
6 
- Những thói xấu thuộc về bản chất, bộc lộ chủ yếu trong những hành vi buồn 
cười của các nhân vật tiêu biểu của xã hội phong kiến: vua chúa, quan lại, hào lí, địa 
chủ, phú ông và các loại “thầy bà”, thậm chí cả thánh thần. 
- Những thói xấu “thông thường” ở những người bình dân bộc lộ ở những hành 
vi buồn cười trong sinh hoạt của họ. 
- Những hiện tượng buồn cười do hiểu lầm, do lầm lỡ, hớ hênh, mà thường 
tình, ai cũng có lúc mắc phải hoặc do những nhược điểm, những khuyết tật không gây 
tổn hại cho ai. 
2.2. Chức năng của truyện cười 
Xét về chức năng thể loại thì truyện cười có hai chức năng. Một là chức năng 
giải trí, gây cười. Đây là tiếng cười hài hước nhằm mục đích mua vui, nó không tố 
cáo một cái gì lạc hậu, xấu xa, phản động. Những truyện cười này đơn giản để giải trí, 
chẳng khác gì những câu ca dao: 
- Chồng còng mà lấy vợ còng, 
 Nằm phản thì chật, nằm nong thì vừa. 
- Chồng què lấy vợ khiễng chân, 
 Nuôi được đứa ở đứt gân cũng què. 
Những truyện cười thực hiện chức năng giải trí, gây cười như vậy được gọi là 
truyện khôi hài. Truyện khôi hài là một thứ thể dục trí tuệ. Người ta cười cho vui cửa 
vui nhà, vui anh, vui em. Ở đó không có nhiều triết lý. Nó vui tươi, nhẹ nhàng, có khả 
năng giáo dục những tình cảm trong sáng, tốt lành, bồi dưỡng tinh thần sảng khoái, 
mang lại cho con người niềm lạc quan, yêu đời. 
Tuy nhiên chức năng chủ yếu của truyện cười là chức năng nhận thức, đấu 
tranh xã hội. Trong kho tàng truyện cười dân gian, những truyện mang ý nghĩa đấu 
tranh xã hội có số lượng lớn hơn những truyện cười có mục đích mua vui thuần tuý. 
Trong những truyện ấy, tác giả dân gian không những làm chúng ta cười mà còn tác 
động vào nhận thức, vào tình cảm của chúng ta, làm cho ta có thể vui, có thể buồn, có 
thể phẫn nộ, căm ghét, khinh bỉ, đau x

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_truyen_cuoi_va_viec_phan_tich_truyen_c.pdf