Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giờ thực hành Tin học 7

Ngày nay, với sự phát triển nhảy vọt của khoa học công nghệ nói chung của ngành tin học nói riêng, với những tính năng ưu việt, sự tiện dụng và được ứng dụng rộng rãi, tin học ngày nay là một phần không thể thiếu được của nhiều ngành trong công cuộc xây dựng và phát triển xã hội. Hơn thế nữa nó còn đi sâu vào đời sống của con người. Do vậy, Việt Nam nói chung và ngành giáo dục đào tạo nói riêng phải đầu tư phát triển về mọi mặt. Đặc biệt là nguồn nhân lực tức là phải đào tạo ra một thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, nắm vững tri thức khoa học công nghệ để làm chủ trong mọi hoàn cảnh công tác và hoạt động xã hội nhằm đáp ứng được nhu cầu trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Để đáp ứng được các yêu cầu trên, môn Tin học đã được đưa vào giảng dạy ở các trường phổ thông với vai trò là môn học tự chọn. Môn học tự chọn Tin học ở trường phổ thông hiện hành có nhiệm vụ trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về công nghệ thông tin và vai trò của nó trong xã hội hiện đại. Môn học này giúp học sinh bước đầu làm quen với phương pháp giải quyết vấn đề theo quy trình công nghệ và kĩ năng sử dụng máy tính phục vụ học tập và cuộc sống. Từ năm học 2006-2007, môn Tin học ở THCS là môn học tự chọn cho những trường có điều kiện với thời lượng 2 tiết/tuần với tất cả các lớp ở cấp học. Là môn học mới đưa vào trường phổ thông và có những đặc thù riêng liên quan chặt chẽ với sử dụng máy tính, cách suy nghĩ và giải quyết vấn đề theo quy trình công nghệ, coi trọng làm việc theo nhóm.

pdf 15 trang Huy Quân 29/03/2025 400
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giờ thực hành Tin học 7", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giờ thực hành Tin học 7

Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giờ thực hành Tin học 7
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG 
GIỜ THỰC HÀNH TIN HỌC 7
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ. 
I. MỞ ĐẦU. 
Ngày nay, với sự phát triển nhảy vọt của khoa học công nghệ nói chung 
của ngành tin học nói riêng, với những tính năng ưu việt, sự tiện dụng và được 
ứng dụng rộng rãi, tin học ngày nay là một phần không thể thiếu được của 
nhiều ngành trong công cuộc xây dựng và phát triển xã hội. Hơn thế nữa nó 
còn đi sâu vào đời sống của con người. 
Do vậy, Việt Nam nói chung và ngành giáo dục đào tạo nói riêng phải 
đầu tư phát triển về mọi mặt. Đặc biệt là nguồn nhân lực tức là phải đào tạo ra 
một thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, nắm vững tri thức khoa học công nghệ để 
làm chủ trong mọi hoàn cảnh công tác và hoạt động xã hội nhằm đáp ứng được 
nhu cầu trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 
Để đáp ứng được các yêu cầu trên, môn Tin học đã được đưa vào giảng 
dạy ở các trường phổ thông với vai trò là môn học tự chọn. 
Môn học tự chọn Tin học ở trường phổ thông hiện hành có nhiệm vụ trang bị 
cho học sinh những hiểu biết cơ bản về công nghệ thông tin và vai trò của nó 
trong xã hội hiện đại. Môn học này giúp học sinh bước đầu làm quen với 
phương pháp giải quyết vấn đề theo quy trình công nghệ và kĩ năng sử dụng 
máy tính phục vụ học tập và cuộc sống. 
Từ năm học 2006-2007, môn Tin học ở THCS là môn học tự chọn cho 
những trường có điều kiện với thời lượng 2 tiết/tuần với tất cả các lớp ở cấp 
học. Là môn học mới đưa vào trường phổ thông và có những đặc thù riêng liên 
quan chặt chẽ với sử dụng máy tính, cách suy nghĩ và giải quyết vấn đề theo 
quy trình công nghệ, coi trọng làm việc theo nhóm. Đặc trưng của môn Tin học 
là kiến thức lí thuyết đi đôi với thực hành, đặc biệt ở lứa tuổi THCS phần thực 
hành còn chiếm thời lượng nhiều hơn. 
Qua thời gian trực tiếp giảng dạy môn Tin học nói chung, Tin học 7 nói 
riêng bản thân tôi nhận thấy rằng nhiều học sinh còn yếu về kĩ năng thực hành 
trên máy. Thậm chí còn có một số học sinh còn ngại thực hiện các thao tác trên 
máy mà chủ yếu là quan sát các học sinh khác trong nhóm thực hành (HS khá -
giỏi). Do vậy các tiết thực hành ít khi đạt yêu cầu chất lượng. 
Từ thực tế trên, trong quá trình dạy học tôi luôn băn khoăn trăn trở làm 
thế nào nâng cao chất lượng trong mỗi giờ thực hành giúp các em thành thục 
các thao tác cơ bản với máy nên trong quá trình giảng dạy tôi luôn chú trọng 
đến việc hướng dẫn, chia nhóm thực hành sao cho các đối tượng học sinh đều 
có thời gian tiếp xúc, sử dụng máy nhiều giúp các em có thể tự khám phá và tự 
học. 
II. CƠ SỞ KHOA HỌC. 
Công nghệ thông tin là một trong các phương tiện quan trọng nhất của 
sự phát triển, đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo 
dục của thế giới hiện đại, trong đó có Việt Nam. Chúng ta đang ở thời đại 
thông tin kĩ thuật số, thời đại Internet. 
Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương chính sách đầu tư và phát triển về 
ứng dụng công nghệ thông tin như: 
- Chỉ thị số 58-CT/TW của bộ chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển 
CNTT trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã chỉ rõ: “Ứng dụng và 
phát triển CNTT là một nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - 
xã hội, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách phát 
triển so với các nước đi trước”. 
- Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộ GD&ĐT về tăng cường giảng dạy, 
đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục đã chỉ rõ: Nâng cao nhận 
thức về vai trò của CNTT; ứng dụng và phát triển CNTT trong giáo dục và đào 
tạo sẽ tạo một bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương 
trình, phương pháp giảng dạy, học tập và quản lí giáo dục. 
Phấn đấu thực hiện các mục tiêu cụ thể của ngành là: Tổ chức tốt việc dạy và 
học tin học ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học nhằm phổ cập tin học 
trong nhà trường,... 
Đặc trưng của môn Tin học là khoa học gắn liền với công nghệ, do vậy dạy 
học Tin học một mặt trang bị cho học sinh kiến thức khoa học về Tin học, phát 
triển tư duy thuật toán, rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề, mặt khác phải chú 
trọng đến rèn luyện kĩ năng thực hành, ứng dụng, tạo mọi điều kiện để học sinh 
được thực hành, nắm bắt và tiếp cận những công nghệ mới của Tin học phục 
vụ học tập và đời sống. Nội dung chương trình của môn Tin học tự chọn hiện 
hành ở các trường phổ thông đã đáp ứng được những yêu cầu trên. 
B/ NỘI DUNG . 
I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH: 
Thực tế qua những năm trực tiếp giảng dạy bộ môn cũng như trao đổi với 
đồng nghiệp tôi nhận thấy: hầu như học sinh đều rất yêu thích và hứng thú với 
môn Tin học. Tuy nhiên, chất lượng bộ môn qua các năm học chưa cao, đặc 
biệt là kĩ năng thực hành trên máy của học sinh còn yếu, thậm chí một số học 
sinh còn rất ngại khi sử dụng máy tính để rèn luyện kĩ năng. 
 1. Thuận lợi: 
- Được sự quan tâm của Chi Bộ và của BGH nhà trường trong công cuộc 
đổi mới phương pháp dạy học. 
- Giáo viên giảng dạy được đào tạo theo đúng chuyên ngành và được bồi 
dưỡng chuyên đề hàng năm. 
- Phần lớn các em học sinh có ý thức tự học cao, luôn tìm tòi học hỏi 
những kiến thức mới trong học tập và rất hứng thú với môn Tin học. 
- Được nhà trường tạo mọi điều kiện thuận lợi về CSVC trang thiết bị 
dạy học. 
2. Khó khăn: 
- Vẫn còn một số em học sinh tiếp thu kiến thức còn chậm, đặc biệt là kĩ 
năng thực hành trên máy của học sinh còn yếu, thậm chí một số học sinh còn 
rất ngại khi sử dụng máy để rèn luyện các kĩ năng, bởi đây là một môn học 
mới. 
- Trường THCS Dĩ An được thành lập mới từ năm học 2008-2009 sau 
khi tách ra từ trường THCS Võ Trường Toản nên cơ sở vật chất của trường rất 
hạn chế cho việc dạy và học theo phương pháp mới hiện nay. 
- Số lượng học sinh trong một lớp học còn quá đông trên 40 học sinh 
một lớp, diện tích phòng máy nhỏ hẹp, phòng máy có 35 máy nhưng là máy cũ 
nên thường hay hư hỏng, thiết bị chiếu sáng thường bị hư hao, không khí trong 
phòng máy không thoáng làm cho học sinh không tập trung vào bài giảng ... 
ảnh hưởng rất lớn trong quá trình giảng dạy và học tập. 
- Học sinh trên địa bàn chủ yếu là con em các gia đình làm công nhân, sự 
quan tâm của phụ huynh đến việc học tập của con em còn nhiều hạn chế, điều 
kiện để các em có máy vi tính ở nhà là rất khó, hầu hết các em chỉ được tiếp 
xúc, làm quen với máy tính trong giờ học dẫn đến việc sử dụng máy của học 
sinh còn lúng túng, chất lượng giờ thực hành chưa cao. Một bộ phận học sinh 
chưa coi trọng môn học, xem đây là một môn phụ nên chưa có sự đầu tư thời 
gian cho việc học. 
II. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: 
1. Khảo sát chất lượng lượng học tập bộ môn: 
Qua khảo sát chất lượng đầu năm học, tôi thấy giờ thực hành học sinh rất 
ngại thực hành trên máy, thao tác thực hành chưa chuẩn, đa số chỉ có học sinh 
khá giỏi thực hành, số còn lại chỉ quan sát, khi giáo viên hỏi và yêu cầu thực 
hành thì không thực hành được. Vì thế, kết quả khảo sát đầu năm học thấp. 
Kết quả khảo sát đầu năm học 2009-2010 (phần thực hành) 
TT Lớp Sĩ số 
Kết quả kiểm tra 
Giỏi Khá TB Yếu Kém 
SL % SL % SL % SL % SL % 
1 7.4 39 5 12.8 10 25.6 12 30.1 10 25.6 2 5.0 
2 7.7 39 7 17.9 9 23.1 15 38.5 7 17.9 1 2.6 
3 7.8 38 8 21.1 11 28.9 13 34.2 5 13.2 1 2.6 
4 7.9 43 12 27.9 12 27.9 11 25.6 6 14.0 2 4.7 
5 7.10 38 4 10.5 7 18.4 16 42.1 8 21.1 3 8.0 
Tổng cộng 197 36 18.3 49 24.8 67 34.0 36 18.3 9 4.6 
2. Thiết kế bài dạy thực hành phải phù hợp với nhiều đối tượng học 
sinh: 
Công việc thiết kế chu đáo trước một bài dạy và phù hợp với nhiều đối 
tượng là khâu quan trọng không thể thiếu của một tiết dạy học mà bất kì một 
giáo viên nào cũng phải biết. “Thiết kế trước bài dạy giúp giáo viên chuẩn bị 
chu đáo hơn về kiến thức, kĩ năng, phương pháp, tiến trình và tâm thế để đi vào 
một tiết dạy”. 
Để thiết kế một bài dạy phù hợp cho nhiều đối tượng học sinh thì tối thiểu nhất 
phải làm được những việc sau: 
- Xác định được mục tiêu trọng tâm của bài học về kiến thức, kĩ năng, thái 
độ tình cảm. Tìm ra được những kĩ năng cơ bản dành cho học sinh yếu kém và 
kiến thức, kĩ năng nâng cao cho học sinh khá giỏi. 
- Tham khảo thêm tài liệu để mở rộng và đi sâu hơn vào bài giảng, giúp 
giáo viên nắm một cách tổng thể, để giải thích cho học sinh khi cần thiết. 
- Nắm được ý đồ của sách giáo khoa để xây dựng và thiết kế các hoạt 
động học tập phù hợp với tình hình thực tế của đối tượng và trình độ học sinh, 
điều kiện dạy học. 
- Chuẩn bị tốt phòng thực hành, các thiết bị dạy học. 
- Hoàn chỉnh tiến trình của một giờ dạy học với đầy đủ các hoạt động cụ 
thể. 
Nếu thực hiện tốt những việc này xem như giáo viên đã chuẩn bị tốt tâm thế 
để bước vào giờ dạy và đã thành công bước đầu. 
3. Điều hành tổ chức hoạt động của học sinh trên lớp. 
 Việc thiết kế tốt một bài dạy và phù hợp với từng đối tượng học sinh 
xem như đã thành công một nửa nhưng đó chỉ là bước khởi đầu cho một tiết 
dạy còn khâu quyết định thành công chính là ở khâu tổ chức điều khiển các đối 
tượng học sinh trên lớp. 
Trong điều kiện CSVC của trường, với một giờ thực hành, việc quan 
trọng đầu tiên là chia nhóm thực hành. Với việc cho học sinh thực hành theo 
nhóm, học sinh có thể trao đổi hỗ trợ lẫn nhau - bài học trở thành quá trình học 
hỏi lẫn nhau chứ không chỉ là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên. Với số lượng 
học sinh của lớp, số lượng máy hiện có, giáo viên phải có phương án chia 
nhóm một cách phù hợp. 
Ví dụ: - Chia nhóm theo đôi bạn cùng tiến. 
- Chia nhóm theo địa hình khu dân cư. 
- Chia nhóm đa dạng nhiều đối tượng. 
- Chia nhóm theo đối tượng học sinh. 
Tuy nhiên để việc thực hành theo nhóm có hiệu quả đòi hỏi giáo viên phải lựa 
chọn nội dung đưa vào thực hành phù hợp với nhiều đối tượng học sinh. 
Cách chia nhóm: Chia nhóm 2 học sinh/máy. Các nhóm có thể tự cử nhóm 
trưởng của nhóm mình. 
Các bước tiến hành: 
- Giáo viên nêu vấn đề, yêu cầu và nội dung thực hành. 
- Giáo viên hướng dẫn cho học sinh các kĩ năng thao tác trong bài thực 
hành, thao tác mẫu cho học sinh quan sá

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_gio_thuc_hanh_tin.pdf