Sáng kiến kinh nghiệm Một vài suy nghĩ về phương pháp dạy thể loại kịch
Luật giáo dục, điều 28.2, đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Cùng với việc yêu cầu đổi mới phương pháp, Bộ giáo dục và đào tạo đã tiến hành thay sách giáo khoa. Sách giáo khoa Ngữ văn Trung học phổ thông đã lựa chọn được một hệ thống văn bản phong phú, đa dạng về thể loại, về các thời kì và các nền văn học.
Kịch là một thể loại không mới nhưng khó đối với cả giáo viên và học sinh đòi hỏi người giáo viên phải chịu khó tìm tòi, phát hiện để đi đến sáng tạo. Làm thế nào để trong một số tiết quá ít ỏi (7/147 tiết đọc - hiểu văn bản Ngữ văn 10,11,12) có thể nâng cao hiệu qủa giờ dạy kịch bản văn học. Đó là vấn đề không đơn giản và đòi hỏi rất nhiều tâm huyết, sức lực của giáo viên. Trong phạm vi bài viết này, tôi xin được trao đổi cùng đồng nghiệp “Một vài suy nghĩ về phương pháp dạy thể loại kịch”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một vài suy nghĩ về phương pháp dạy thể loại kịch

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY THỂ LOẠI KỊCH Một vài suy nghĩ về phƣơng pháp GV: Nguyễn Thị Phƣơng Lan dạy thể loại kịch Trang 1 MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ PHƢƠNG PHÁP DẠY THỂ LOẠI KỊCH ******** PHẦN I: LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Luật giáo dục, điều 28.2, đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Cùng với việc yêu cầu đổi mới phương pháp, Bộ giáo dục và đào tạo đã tiến hành thay sách giáo khoa. Sách giáo khoa Ngữ văn Trung học phổ thông đã lựa chọn được một hệ thống văn bản phong phú, đa dạng về thể loại, về các thời kì và các nền văn học. Kịch là một thể loại không mới nhưng khó đối với cả giáo viên và học sinh đòi hỏi người giáo viên phải chịu khó tìm tòi, phát hiện để đi đến sáng tạo. Làm thế nào để trong một số tiết quá ít ỏi (7/147 tiết đọc - hiểu văn bản Ngữ văn 10,11,12) có thể nâng cao hiệu qủa giờ dạy kịch bản văn học. Đó là vấn đề không đơn giản và đòi hỏi rất nhiều tâm huyết, sức lực của giáo viên. Trong phạm vi bài viết này, tôi xin được trao đổi cùng đồng nghiệp “Một vài suy nghĩ về phƣơng pháp dạy thể loại kịch”. PHẦN II: THỰC TRẠNG TRƢỚC KHI THỰC HIỆN GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI I. Thuận lợi: - Ở Trung học cơ sở, các em đã được làm quen với những văn bản kịch: Chèo “Quan Âm Thị Kính” ( trích đoạn - 2 tiết); kịch cổ điển Pháp “Ông Giuốc đanh mặc lễ phục”( trích đoạn - 2 tiết); kịch Việt Nam “Bắc Sơn” (trích đoạn - 2 tiết); “Tôi và chúng ta”( trích đoạn - 2 tiết). Một vài suy nghĩ về phƣơng pháp GV: Nguyễn Thị Phƣơng Lan dạy thể loại kịch Trang 2 - Sở giáo dục và đào tạo Đồng Nai thường xuyên tổ chức các chuyên đề văn học, các lớp tập huấn thay sách, đổi mới phương pháp dạy và học; tích hợp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh - Được sự hướng dẫn, đóng góp ý kiến nhiệt tình của quý thầy cô trong tổ chuyên môn. II. Khó khăn: 1. Đối với giáo viên: - Chương trình và sách giáo khoa lớp 11, 12 mới đang triển khai năm thứ 5, thứ 4 còn nhiều bỡ ngỡ, xa lạ. - Trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông, văn bản kịch là một thể loại không mới song khó, hơn nữa chiếm một tỉ lệ quá khiêm tốn so với các văn bản về thơ và văn xuôi. - Điều kiện cơ sở vật chất của trường còn thiếu thốn. - Tài liệu tham khảo về kịch không phổ biến, dễ kiếm như các thể loại văn học khác. - Kinh nghiệm thưởng thức kịch hạn chế, kĩ năng giảng dạy chưa nhiều. 2. Đối với học sinh: - Ý thức học tập và sự yêu thích kịch chưa trở thành niềm đam mê trong học sinh. - Ít hoặc chưa từng được trực tiếp xem biểu diễn kịch trên sân khấu. PHẦN III: NỘI DUNG ĐỀ TÀI I. Cơ sở lí luận 1. Khái niệm kịch: 1.1. Ở cấp độ loại hình: - Kịch là một trong ba phương thức cơ bản của văn học (Kịch, tự sự, trữ tình). Kịch vừa thuộc sân khấu vừa thuộc văn học. Kịch bản vừa dùng để diễn là chủ yếu lại vừa dùng để đọc vì kịch bản chính là phương diện văn học của kịch. Theo đó, tiếp nhận kịch bản chính là tiếp nhận phương diện của văn học kịch (tr.142). Nói đến Một vài suy nghĩ về phƣơng pháp GV: Nguyễn Thị Phƣơng Lan dạy thể loại kịch Trang 3 kịch là phải nói đến sự biểu diễn trên sân khấu của các diễn viên bằng hành động, cử chỉ, nét mặt, điệu bộ và bằng lời nói (riêng kịch câm không diễn tả bằng lời). 1.2. Ở cấp độ thể loại: - “ Thuật ngữ kịch được dùng để chỉ một thể loại văn học - sân khấu có vị trí tương đương với bi kịch và hài kịch. Với ý nghĩa này, kịch còn được gọi là chính kịch” (tr.143). Cũng giống như hài kịch, kịch tái hiện cuộc sống riêng của con người bình thường nhưng mục đích chính không phải là chế giễu các thói hư tật xấu mà là mô tả cá nhân trong các mối quan hệ chứa đựng kịch tính đối với xã hội. Và cũng giống như bi kịch, kịch chú trọng tái hiện những mâu thuẫn gay gắt, song những xung đột của nó cũng không căng thẳng đến tột độ, không mang tính chất vĩnh hằng và về nguyên tắc có thể giải quyết được ổn thỏa. 2. Đặc trƣng của kịch 2.1. Xung đột kịch - Kịch tập trung miêu tả xung đột trong đời sống. Hêghen khẳng định: “Tình thế giàu xung đột là ưu tiên của nghệ thuật kịch”. Bêlinxki cũng cho rằng “xung đột tạo nên tính kịch”. - Lấy xung đột trong đời sống làm cơ sở cho sự sáng tạo nghệ thuật, nhà viết kịch đến với hiện thực bằng con đường ngắn nhất. Pha - đê - ép đã từng khẳng định “Xung đột là cơ sở của kịch”. Xung đột kịch có thể diễn ra giữa các mặt khác nhau trong một con người, giữa các cá nhân với nhau, giữa các nhóm người, các tập đoàn người, giữa một đối tượng nào đó với hoàn cảnh xung quanh. - Xung đột kịch một khi diễn ra, phát triển liên tục không gián đoạn cho đến khi kết thúc. Quá trình diễn biến của xung đột kịch được cụ thể hóa bằng hành động kịch, đó là sự tổ chức các tình tiết, biến cố trong cốt truyện với một trình tự logic, chặt chẽ chủ yếu theo quy luật nhân quả. - Xung đột là động lực thúc đẩy sự phát triển của hành động kịch nhằm xác lập nên những quan hệ mới giữa các nhân vật vốn được coi là kết thúc tất yếu của tác phẩm kịch. Vì vậy, người viết kịch phải tạo được những xung đột mang ý nghĩa xã hội Một vài suy nghĩ về phƣơng pháp GV: Nguyễn Thị Phƣơng Lan dạy thể loại kịch Trang 4 sâu sắc, tính khái quát lớn lao nhưng phải hết sức chân thực, nghĩa là xung đột mang tính điển hình hóa. 2.2. Hành động kịch: - Xung đột kịch được cụ thể hóa bằng hành động kịch. Theo Arixtốt : “Hành động là đặc trưng của vở kịch”. Nếu xung đột được coi là điều kiện cần thiết làm nảy sinh tác phẩm thì hành động lại là yếu tố duy trì sự vận hành của tác phẩm. Trong mối giao lưu đó, xung đột là nơi quy tụ, chọn lọc và tổ chức hành động kịch. Hành động kịch thường phát triển theo hướng thuận chiều với xung đột kịch. Xung đột càng căng thẳng thì thiên hướng hành động càng trở nên quyết liệt, vì thế sức hấp dẫn của tác phẩm tăng lên. - Hành động kịch không thể tự nhiên diễn ra mà phải được thực hiện bởi các nhân vật kịch. Do sự dồn nén quy tụ những nét bản chất của hiện thực trong xung đột cho nên nhịp điệu hành động của các nhân vật kịch thường dồn dập, gấp gáp có khi hết sức quyết liệt, sự biểu hiện và vận động phát triển của tính cách các nhân vật kịch có thể gây nên cảm xúc đau buồn, thương xót nhưng sự biểu hiện và vận động phát triển của tính cách các nhân vật kịch cũng có thể làm người ta bật cười vì xấu nhưng cố tình tỏ ra là đẹp, ti tiện làm ra vẻ vĩ đại, ngu ngốc làm ra vẻ thông thái (Gu la ep). 2.3. Ngôn ngữ kịch: Đối thoại, độc thoại, bàng thoại 3. Các kiểu loại kịch: Có nhiều cách phân loại kịch theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau. Nhưng cách phân loại phổ biến nhất là theo tính chất của các loại hình xung đột: Bi kịch, hài kịch, chính kịch, II. Nội dung và biện pháp thực hiện 1. Sự khác nhau giữa thơ, truyện, kịch Thể loại văn học Thơ Truyện Kịch Một vài suy nghĩ về phƣơng pháp GV: Nguyễn Thị Phƣơng Lan dạy thể loại kịch Trang 5 Đặc trƣng - Vấn đề cốt yếu trong nội dung của thơ là tính chất trữ tình ( biểu đạt tình cảm, cảm xúc): + Thơ ca là tấm gương của tâm hồn, là tiếng nói của tình cảm con người. Đúng như ý kiến của Lê Quý Đôn: “Thơ phát khởi từ trong lòng người ta”. + Thơ là tiếng nói mở cửa đi ra từ trái tim và trở về rung động trái tim. - Ngôn ngữ thơ rất hàm súc, giàu hình ảnh và - Kể lại, (miêu tả) trình tự các sự việc, có nhân vật - Truyện phản ánh diễn biến đời sống thông qua cốt truyện. Đó là một chuỗi các tình tiết, sự kiện, biến cố được tổ chức sắp xếp một cách có nghệ thuật. - Nhân vật được miêu tả chi tiết và sinh động trong mối quan hệ với hoàn cảnh, với mối trường xung quanh. - Phạm vi miêu tả trong truyện không bị hạn chế về không gian và thời gian. - Ngôn ngữ trong truyện rất linh hoạt và - Thông qua lời thoại, hành động của các nhân vật để thể hiện mâu thuẫn, xung đột. - Tập trung miêu tả xung đột trong đời sống. Hê-ghen khẳng định: “ tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên của nghệ thuật kịch”. Bê-lin-xki cũng cho rằng: “Xung đột tạo nên tính kịch”. - Xung đột kịch được cụ thể hóa bằng hành động kịch. Hành động kịch được tổ chức qua cốt truyện và được thực hiện bởi các nhân vật (ngôn ngữ, hành động). - Ngôn ngữ kịch mang đặc điểm Một vài suy nghĩ về phƣơng pháp GV: Nguyễn Thị Phƣơng Lan dạy thể loại kịch Trang 6 Từ đặc trưng của kịch và sự khác nhau giữa thơ, truyện, kịch ở trên, tôi có một vài suy nghĩ về phương pháp dạy thể loại kịch như sau: 2. Phƣơng hƣớng dạy học 2.1. Giáo viên hƣớng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà 2.1.1. Công việc của giáo viên: - Giáo viên giới thiệu đặc điểm, trọng tâm bài học. - Đưa ra hệ thống câu hỏi để học sinh chuẩn bị bài ở nhà Kiểu loại nhạc điệu: + Hàm súc: nói ít, gợi nhiều, ý tại ngôn ngoại. + Giàu hình ảnh: thi trung hữu họa (trong thơ có họa) + Giàu nhạc điệu: Thi trung hữu nhạc ( trong thơ có nhạc). Maiacốpxki cho rằng: “Nhịp điệu là năng lượng cơ bản của câu thơ”. - Xét theo nội dung biểu hiện: thơ trữ tình, thơ tự sự, thơ trào phúng - Xét theo cách thức tổ chức bài thơ: thơ cách luật, thơ tự do, thơ văn xuôi gần với ngôn ngữ đời sống. - Ở bộ phận văn học dân gian: thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn. - Ở văn học trung đại: truyện viết bằng chữ Hán, truyện thơ Nôm. - Ở văn học hiện đại: truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài (tiểu thuyết). khắc họa tính cách nhân vật, có tính hành động và tính khẩu ngữ cao. Ngôn ngữ kịch có ba loại: đối thoại, độc thoại, bàng thoại. Các kiểu loại kịch: bi kịch, hài kịch,
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_vai_suy_nghi_ve_phuong_phap_day_th.pdf