Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh viết bài văn hay
Đối với học sinh hiện nay, học văn là một thử thách. Thử thách lòng kiên trì. Thử thách tính tỉ mỉ. Thử thách cả tâm hồn. Và nhất là thử thách cả trí óc. Kết quả của quá trình thử thách ấy được thể hiện rõ nhất qua bài văn. Cho nên, việc học văn gắn liền với viết văn. Một học sinh giỏi văn không phải chỉ là học sinh chăm phát biểu trong lớp, biết phát hiện vấn đề, có tâm hồn nhạy bén, sắc sảo; một học sinh giỏi văn phải là học sinh biết cách viết một bài văn hay. Điều đó lí giải vì sao tất cả các môn học khác có thể thi trắc nghiệm nhưng môn văn thì không?
Trong 8 năm dạy văn, nhiều lần bản thân người viết cũng ngộ nhận trong việc đánh giá và chọn lựa học sinh giỏi. Quả thật có một số học sinh rất tài trong phát hiện vấn đề, phát biểu rất trôi chảy nhưng khi bắt tay vào viết bài thì diễn đạt lại lúng túng. Một lẽ vì văn nói và văn viết đã có khoảng cách, một lẽ vì lời nói có thể thoáng qua nhưng lời văn thì đọng lại. Nhằm phục vụ cho công việc đào tạo học sinh giỏi không chỉ của trường chuyên mà cho tất cả các trường trung học, người viết lựa chọn đề tài: Giúp học sinh viết bài văn hay.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh viết bài văn hay

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH VIẾT BÀI VĂN HAY PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Đối với học sinh hiện nay, học văn là một thử thách. Thử thách lòng kiên trì. Thử thách tính tỉ mỉ. Thử thách cả tâm hồn. Và nhất là thử thách cả trí óc. Kết quả của quá trình thử thách ấy được thể hiện rõ nhất qua bài văn. Cho nên, việc học văn gắn liền với viết văn. Một học sinh giỏi văn không phải chỉ là học sinh chăm phát biểu trong lớp, biết phát hiện vấn đề, có tâm hồn nhạy bén, sắc sảo; một học sinh giỏi văn phải là học sinh biết cách viết một bài văn hay. Điều đó lí giải vì sao tất cả các môn học khác có thể thi trắc nghiệm nhưng môn văn thì không? Trong 8 năm dạy văn, nhiều lần bản thân người viết cũng ngộ nhận trong việc đánh giá và chọn lựa học sinh giỏi. Quả thật có một số học sinh rất tài trong phát hiện vấn đề, phát biểu rất trôi chảy nhưng khi bắt tay vào viết bài thì diễn đạt lại lúng túng. Một lẽ vì văn nói và văn viết đã có khoảng cách, một lẽ vì lời nói có thể thoáng qua nhưng lời văn thì đọng lại. Nhằm phục vụ cho công việc đào tạo học sinh giỏi không chỉ của trường chuyên mà cho tất cả các trường trung học, người viết lựa chọn đề tài: Giúp học sinh viết bài văn hay. 2. MỤC ĐÍCH VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU. - Hiểu thế nào là một bài văn hay, các yếu tố tạo nên bài hay từ nội dung (lập ý) đến hành văn. - Biết đánh giá đoạn văn, bài văn hay và biết phân tích những yếu tố tạo nên các hay của đoạn văn hay bài văn - Xác định các thao tác cụ thể cho việc viết một bài văn. - Chú trọng cách rèn luyện, nâng cao khả năng diễn đạt cho học sinh. - Hướng dẫn thực hiện một số đề văn cụ thể. Nhằm phục vụ chủ yếu cho học sinh trung học phổ thông trong các kì thi quốc gia (Học sinh giỏi, tốt nghiệp, đại học) nên người viết bàn kĩ hơn về cách viết kiểu bài văn nghị luận . PHẦN NỘI DUNG I- MỘT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN HAY TRƯỚC HẾT PHẢI LÀ BÀI VĂN ĐÚNG. Yêu cầu 1: Xác định yêu cầu đề bài Đây là điều kiện trước tiên và cũng là điều kiện quan trọng nhất. Bởi vì một bài văn hay phải phục vụ cho đề văn với những yêu cầu cụ thể. Vẫn biết viết văn đề cao những sáng tạo nhưng những sáng tạo ấy chỉ có ý nghĩa khi nó nhắm tới vấn đề được yêu cầu. Giáo viên cần giúp học sinh phân biệt viết văn trong các kì thi khác với công việc sáng tác. Viết văn với tư cách học sinh không giống viết văn với tư cách nghệ sĩ. Việc nhận thức đúng yêu cầu đề là việc làm khó khăn, là thử thách đầu tiên đối với người muốn viết bài văn hay.Vì chỉ khi đã biết phải viết cái gì, viết cho ai, viết để làm gì thì người viết mới xác định được mình phải viết như thế nào. Dĩ nhiên không phải cứ nhận thức đúng đề bài là bài văn sẽ đúng. Nhưng khi đã nhận thức đề bài không đúng thì bài văn chắc chắn sẽ đi chệch mục tiêu. * Tóm lại, trước khi viết bài, giáo viên cần dạy học sinh thao tác phân tích đề. Đối với học sinh giỏi, thao tác này thường bị xem thường vì các em cho rằng xác định đề khiến em ấy mất thời gian. Thời gian khi đang thi thì quý thật, nhưng dùng thời gian quý giá ấy để làm việc xây nền tảng cho nhận thức của bài viết thì hoàn toàn không vô ích Để xác định đúng yêu cầu của đề bài, giáo viên yêu cầu học sinh trả lời ba câu hỏi sau: 1. Luận đề của bài viết là gì? 2. Sử dụng các thao tác lập luận nào? 3. Phạm vi dẫn chứng? Ví dụ: Đề văn: Bức tranh tuyệt vời Một họa sĩ suốt đời mơ ước vẽ một bức tranh đẹp nhất trần gian. Ông đến hỏi vị giáo sĩ để biết được điều gì đẹp nhất. Vị giáo sĩ trả lời: “Điều đẹp nhất trần gian là niềm tin, vì niềm tin nâng cao giá trị con người”. Họa sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với cô gái và được trả lời: “Tình yêu là điều đẹp nhất trần gian, bởi tình yêu làm cho cay đắng trở nên ngọt ngào; mang đến nụ cười cho kẻ khóc than; làm cho điều bé nhỏ trở nên cao trọng, cuộc sống sẽ nhàm chán biết bao nếu không có tình yêu”. Cuối cùng họa sĩ gặp một người lính mới từ trận mạc trở về. Được hỏi, người lính trả lời: “Hòa bình là cái đẹp nhất trần gian, ở đâu có hòa bình, ở đó có cái đẹp”. Và họa sĩ đã tự hỏi mình: “Làm sao tôi có thể cùng lúc vẽ niềm tin, hòa bình và tình yêu?” ... Khi trở về nhà, ông nhận ra niềm tin trong ánh mắt của các con, tình yêu trong cái hôn của người vợ. Chính những điều đó làm tâm hồn ông tràn hạnh phúc và bình an. Họa sĩ đã hiểu thế nào là điều đẹp nhất trần gian. Sau khi hoàn thành tác phẩm, ông đặt tên cho nó là: “Gia đình” (Theo Phép nhiệm màu của đời, NXB Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004) Câu chuyện trên gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì? Đề văn này người viết đã ra trong Kì thi học sinh giỏi Olympic toàn miền Nam (năm 2010). Khi chấm thi, giám khảo nhận thấy nhiều học sinh đã không xác định trúng yêu cầu đề. Các em bàn luận chung chung về niềm tin, tình yêu, hòa bình và gia đình. Tất nhiên, câu chuyện trên có tất cả các vấn đề đó, nhưng nội dung trọng tâm không thể dàn trải như vậy. Đáp án phân tích đề như sau: 1. Luận đề: Vai trò quan trọng của gia đình. Với gia đình, ta tìm thấy niềm tin, tình yêu, hòa bình. 2. Thao tác lập luận: giải thích ý nghĩa câu chuyện, phân tích vai trò của gia đình, bình luận nâng cao 3. Phạm vi tư liệu: đời sống và thơ ca (Mây và sóng, Bến quê) Yêu cầu 2: Xây dựng hệ thống luận điểm, luận cứ Để làm nên bài văn đúng thì việc phân tích chính xác đề bài dù là điều kiện cần nhưng chưa là điều kiện đủ. Phân tích đúng đề chỉ đem đến cho bài làm một định hướng, một chuẩn đích. Còn có đi theo được định hướng đó hay không còn phụ thuộc vào thực lực của người viết bài. Thực lực học sinh thể hiện ở hệ thống luận điểm, luận cứ được nêu trong bài. Muốn bài văn đúng thì các luận điểm, luận cứ không được phép sai. Làm thế nào để xác định được luận điểm và luận cứ xác đáng? Thứ nhất quan điểm của người viết phải phù hợp với chủ đề được đưa ra bàn luận. Thứ hai, người viết phải có căn cứ từ lẽ phải (sự thật hiển nhiên). Thứ ba người viết phải tổ chức luận điểm một cách rõ ràng, chặt chẽ sao cho những lời nói hợp với lẽ phải và sự thật đó tìm được lối đi vào trí tuệ và tâm hồn người đọc, để lay chuyển nhận thức của họ, thuyết phục họ nghe theo đường hướng và cách thức mà người viết đã vận dụng để giải quyết vấn đề. Ví dụ: Đề bài: Kết thúc “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”, Nguyễn Dữ viết: “Than ôi! Người ta thường nói cứng quáthì gãy. Kẻ sĩ chỉ lo không cứng cỏi được, còn gãy hay không là việc của trời. Sao lại đoán trước là sẽ gãy mà chịu đổi cứng ra mềm?” Theo anh chị, Nguyễn Dữ muốn gửi gắm điều gì? Bằng thực tế cuộc sống, hãy bàn về nội dung câu văn ấy. Hệ thống luận điểm, luận cứ như sau: 1. Câu nói của tác giả là bài học về cách sống cứng rắn, can đảm, sẵn sàng bảo vệ và đi theo niềm tin đúng đắn của bản thân, không mềm yếu nhu nhược để cái xấu hoàn thành. 2. Người cương trực thẳng thắn, dám nghĩ, dám làm, luôn giải quyết tận gốc vấn đề và đạt được kết quả tốt, làm việc có hiệu quả. DC: Hồ Chí Minh, Thomas Edison 3. Sợ “gãy” tức là mềm yếu nhút nhát, lo sợ rắc rối, vì vậy, việc làm không được giải quyết hoặc dở dang, không triệt để, để lại hậu quả xấu. DC: Vì không dám đụng đến con ông này, cháu nọ mà người thi hành pháp luật xử phạt không nghiêm minh, chắc chắn lần sau đối tượng sẽ tái phạm. 4. Người cứng thường có chính kiến riêng và sẵn sàng bảo vệ điều mình tin là đúng nên có sự ảnh hưởng đến cộng đồng, tập thể DC: Ga-li-lê 5. “Mềm” quá nên đứng không vững, luôn ở vị trí trung lập, không có tiếng nói nên dù không làm gì sai nhưng cũng không được coi trọng 6. Nguyễn Dữ nói “gãy hay không là việc của trời” nhưng có lẽ “gãy” là do hành động của con người. Cứng mà bảo thủ, không suy xét, không biết tự nhận ra khuyết điểm bản thân – cái gốc không chắc thì sẽ “gãy”. 7. Sống “cứng”, cương trực nhưng đôi khi phải “mềm” để tiếp thu cái mới, thay đổi tư tưởng lạc hậu để phù hợp với thời đại mới. Yêu cầu 3: Lựa chọn các thao tác lập luận Sự phối hợp các luận điểm, luận cứ để bài văn đạt mục đích nghị luận mà đề bài đã quy định và người viết đã đặt ra gọi là luận chứng hay lập luận. Trong một bài văn, công việc lập luận cần được tiến hành theo những bài bản, quy trình mà học sinh đã tích hợp học trong chương trình tập làm văn từ cấp trung học cơ sở. Chúng ta có nhiều lựa chọn: thao tác lập luận giải thích, thao tác lập luận chứng minh, thao tác lập luận phân tích, thao tác lập luận so sánh, thao tác lập luận bình luận, thao tác lập luận bác bỏ Muốn bài văn đúng thì việc lựa chọn và vận dụng các thao tác lập luận không được sai lầm. Việc phân tích đề có thể giúp người viết tránh được sự lầm lẫn trong khâu lựa chọn. Chẳng hạn không thể dùng thao tác lập luận chứng minh làm thao tác chính khi yêu cầu đề văn là làm cho người đọc hiểu một vấn đề. Trong việc làm văn hiểu được mình phải vận dụng những thao tác lập luận nào vẫn là chưa đủ. Người tập làm văn còn phải khổ công rèn luyện để có thể thực hiện một cách thành thao từng thao tác, cũng như kết hợp được những thao tác đó với nhau. Có như thế mới mong đáp ứng được mục đích riêng của mỗi bài làm cụ thể. Và khi đó bài văn mới có hy vọng được coi là đúng đắn. Đề bài: Nhà văn Bùi Hiển đã phát biểu: “Ở nước nào cũng vậy thôi, sự cảm thông, chia sẻ giữa người đọc và người viết là trên hết” (Báo Văn nghệ, số ra ngày 10/2/2004) Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy phân tích bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du để làm rõ tiếng lòng tri âm ấy. Đoạn văn giải thích của học sinh: Hai tiếng “tri âm” bắt đầu từ điển tích Bá Nha- Tử Kì. Bước ra cuộc sống, nó đã thoát khỏi nghĩa gốc hạn hẹp ban đầu để hòa nhập với cuộc đời mênh mông. Đó không chỉ là thấu tỏ tiếng đàn nghĩ về núi cao hay tưởng về nước chảy mà là sự đồng cảm, thấu hiểu tâm tình của nhau, sự tâm đầu ý hợp tương giao giữa hai tâm hồn. Tri âm xuất phát từ nghệ thuật (âm nhạc) nên dĩ nhiên ý nghĩa đẹp nhất, thi vị nhất cũng dành cho nghệ thuật. Tri âm trong văn học là khúc nhạc đồng điệu réo rắt, hò
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_viet_bai_van_hay.pdf